Hiển thị các bài đăng có nhãn Tiếng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tiếng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024

Nguồn gốc từ "đểu cáng"

"ĐỂU CÁNG" CÓ NGHĨA LÀ GÌ?

Ngày xưa mỗi khi đi đâu, chưa có xe cộ sẵn như bây giờ, là người ta phải thuê người cáng đi – nhất là người có tuổi, người ốm. Còn đồ đạc mang theo lại phải thuê người gánh. Người cáng thuê, người ta gọi là CÁNG, còn người gánh thuê, người ta gọi là ĐỂU.

Mỗi lần gọi người đưa đi như thế, thường người ta ra đầu đường – nơi tập trung những người làm nghề đó, gọi “Cho một ĐỂU, hai CÁNG nhé!” và thế là sẽ có ba người te tái chạy vào, hai người vác theo một cái cáng, còn một người mang theo đòn gánh quang gánh.

Thứ Sáu, 3 tháng 3, 2017

Tiếng Việt: Mày, Tao, Mi, Tớ...  

Đáng chú ý:
*"qua việc sử dụng hệ thống từ vựng chỉ thân tộc làm đại từ nhân xưng, người Việt Nam đã biến gia đình thành hệ quy chiếu của quan hệ xã hội"
*"Xem xã hội như một gia đình mở rộng cũng là một điều hay. Ừ, thì… hay. Nhưng dở, cũng lắm chuyện dở. Dở nhất, theo tôi, là với cách nhìn ấy, người Việt Nam rất khó xây dựng được một xã hội công dân thực sự, ở đó, tư cách mỗi người được xác định bằng một tiêu chí duy nhất: luật pháp. Không phải ngẫu nhiên mà ở Việt Nam, chỉ có một nơi duy nhất cách xưng hô dựa trên hệ thống từ thân tộc hoàn toàn bị loại bỏ: toà án. Nghĩ cũng phải chứ. Chẳng lẽ quan toà lại phán: “cháu tuyên án bác 30 năm tù khổ sai vì tội giết người có vũ khí.” hay: “Anh phạt em 2 năm tù ở vì tội làm điếm.” Chẳng lẽ thế? Thế nhưng, tại sao trong các cơ quan công quyền khác, người ta lại cứ tiếp tục bác bác cháu cháu? Nghe, dễ tưởng là thân mật, thậm chí, dân chủ nữa, nhưng theo tôi, chính cái cách xưng hô như thế đã góp phần ngăn chận quá trình dân chủ hoá của Việt Nam"

Tác·giả: Nguyễn·Hưng·Quốc
Hình minh họa. Nguồn: url
Kinh nghiệm rút ra từ nhiều năm dạy tiếng Việt ở hải ngoại cho tôi thấy, đối với những người mới học, trong tiếng Việt, có hai điều khó nhất: thanh điệu và cách xưng hô. Ðối với những ngoại quốc học tiếng Việt, hai cái khó ấy cơ hồ ngang nhau, dù cái khó thứ nhất, về thanh điệu, cần phải được ưu tiên khắc phục trước, để từ đó, học viên mới có thể phát triển được khả năng nghe và nói của họ. Ðối với học viên Việt Nam sinh trưởng ở nước ngoài, cái khó về thanh điệu thường không đến mức quá trầm trọng: dù chưa bao giờ chính thức học tiếng Việt, họ cũng đã từng nghe cha mẹ và bà con chuyện trò bằng tiếng Việt, đã quen với cái điệu lên bổng xuống trầm của tiếng Việt, vì vậy, thường, không cần có tài thẩm âm lắm, họ cũng có thể phân biệt được sự khác nhau giữa những chữ, chẳng hạn, MA, MÁ, MÀ, MẢ, MÃ, và MẠ. Tuy nhiên, cả người ngoại quốc lẫn người Việt sinh trưởng ở nước ngoài đều cảm thấy lúng túng về cách xưng hô trong tiếng Việt.

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017

Chữ Việt gốc Pháp còn tồn tại đến ngày nay

Tác giả: Nguyễn Đức Tuấn - Tống Phước Hiệp
Monday, 8 July 2013

.....

Hiện tại, trong vốn từ của Việt nam, ngoài 65% là từ gốc Hán còn khoảng hơn 400 từ là từ gốc Pháp, các từ này vẫn còn đang được sử dụng khắp nơi, nhiều khi miệng nói ra nhưng bạn không biết mình vừa nói một câu có chữ Pháp trong đó.

Lấy ví dụ:

Thằng đó chuyên môn lấy le để đi cua đào, nhưng con nhỏ kia thì lại hay làm reo.

Một câu như vậy là đã có 3 chữ Pháp, đó là chữ le, chữ cua và chữ reo, bởi vì trong tiếng Việt "le" là động từ trong khi ở đây là danh từ, "cua" trong tiếng Việt là danh từ trong khi ở đây là động từ, "reo" trong tiếng Việt là động từ trong khi ở đây là danh từ.

Các chữ đó vì đã quen dùng, ít người còn biết gốc gác là do đâu. Nếu việc phiên âm thể hiện rõ ràng thì bạn có thể lần mò mà tra ra được, song rất nhiều chữ mơ hồ, bạn đi tìm nguồn gốc rất khó.

Ví dụ:

Cây láp là do chữ gì ?

Doa là do chữ gì ?

Ca-ve là do chữ gì ?

Ma-cà-bông là do chữ gì ?

Những chữ như vậy, muốn biết, bạn phải đi hỏi những người đã từng sống trong thời Pháp và biết tiếng Pháp, tức những người từ 65 tuổi trở lên. Tiếc thay, số này còn lại không nhiều, các bậc cao niên thì lần lần ra đi hết, và trong số đó, không phải chữ nào họ cũng biết, vì có những chữ thuộc ngành nghề, có ở trong nghề mới biết.

Tiếng Việt gốc Pháp

Các phương pháp phiên âm

Nói cho đúng, các từ ngữ của Pháp du nhập vào Việt nam bằng nhiều con đường khá tản mạn: hoặc do thợ thuyền, hoặc do các nhà văn, nhà báo, khách ăn chơi, gái giang hồ, mỗi người phiên âm một cách, không thống nhất nhau. đàng khác, người miền Nam phiên âm theo cách của người miền Nam, người miền Bắc phiên âm theo cách của người miền Bắc, do đó cùng một chữ nhưng ta thấy có 2 cách phiên âm khác nhau.

Có thể xếp các cách phiên âm thành 6 dạng:

Thứ Tư, 15 tháng 2, 2017

Từ Hán Việt gốc Nhật trong tiếng Việt

Tác·giả: Trần Đình Sử 
Đại học Sư phạm Hà Nội

1. Tiếng Việt có một vốn từ Hán - Việt rất lớn. Tuy chưa có con số thống kê xác định, song các nhà ngôn ngữ ước lượng số từ đó chiếm từ 60-80% từ vựng tiếng Việt. Trong số từ Hán Việt tiếp thu được từ thư tịch Hán cổ, từ Hán ngữ hiện đại, có một loạt từ Hán Việt, tuy tiếp thu chủ yếu qua con đường từ sách báo Trung Quốc nhưng lại có nguồn gốc Nhật Bản, chính người Trung Quốc cũng xem là từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật Bản của họ. Có thể có cả từ gốc Nhật người Nhật trực tiếp đem đến Việt Nam hoặc người Việt trực tiếp vay mượn.

2. Dựa vào Từ điển từ ngoại lai của tiếng Hán do các tác giả Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn từ năm 1958, hoàn thành vào năm 1978, xuất bản năm 1984(1) có thể nhặt ra khoảng trên 350 từ gốc Nhật mà ngày nay vẫn được sử dụng trong tiếng Việt, chắc chắn là tiếp thu qua sách báo Trung Quốc. Các từ đó là: 

a- Về chính trị, xã hội có: Quốc lập, quốc thể, Cơ quan, kiên trì, độc tài, độc chiếm, thừa nhận, thành viên, xuất phát điểm, bối cảnh, nguyên tắc, trọng điểm, xã giao, thi hành, lao động, nghị viện, nghị quyết, chính sách, chính đảng, tổ chức, phương châm, hiến pháp, mục tiêu, nội các, tuyển cử, tuyên truyền, hiệp hội, hiệp định, nhân quyền, xã hội, nhân văn chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, giai cấp, vô sản, quyền uy, lập hiến, lập trường, lãnh thổ, đặc quyền, đặc vụ, đồng tình, thị trường, biểu quyết, hiến binh, nghĩa vụ, tư bản, tự do, chỉ thị, chỉ đạo, trung tướng, thiếu tướng, thiếu úy, nguyên soái, trọng tài, công dân, cách mạng, cao trào, quan điểm, quốc tế, công nhận, công bố, cộng hòa, cương lĩnh, cán bộ, chi bộ, tập trung, tập đoàn, giải phóng, câu lạc bộ, quân nhu, quan hậu, hội đàm, động viên, đại biểu, đại bản doanh, pháp luật, phản đối, kháng nghị, phản động, đại cục, đề kháng, tổng lãnh sự, tổng động viên, thẩm phán, thẩm vấn, bồi thẩm viên, thời sự, thực quyền, xâm phạm, tuyên chiến, dân chủ, tư pháp, phán quyết, phục vụ, phủ quyết, phần tử, thủ tiêu, tiến triển, lý tưởng, đăng kí, đơn vị, quốc giáo, hàng không mẫu hạm, Cơ đốc giáo, chiến tuyến.

Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2016

Có một giọng Trung chuẩn hơn Hà Nội, Huế, Sài Gòn?

01/11/2015 18:00 GMT+7
Tác giả: Chung Hai
Báo Tuổi trẻ
TTO - Một người bạn của tôi kể một chuyện quen thuộc quê mình, một huyện ở Quảng Nam: khi thầy cô hay có vị khách nào vào lớp, lớp trưởng ở Quảng Nam hô: "Học sinh đứng...", cả lớp đáp vang: "Thẻng" (thẳng).

BTV Hoài Anh (bìa trái) cùng hai đồng nghiệp đoạt giải Người dẫn chương trình được yêu thích trong năm 2009 do tạp chí Truyền Hình - Đài truyền hình VN tổ chức - Ảnh: Hải Hưng
Ngay tôi, có lần đưa một người bạn quê Tam Kỳ (Quảng Nam) lần đầu tiên vô Sài Gòn-Chợ Lớn chơi, gặp quầy bán vịt lạp, người bạn này buột miệng: "Cho (cha), con chi như con bo bo (ba ba)". Hoặc như bạn Trần Tình nhận định: "Càng vào sâu Khu 5 thì phát âm càng xa với âm gốc. Số ĐT là 347817 mà đọc là “ba bốn bữa té một bữa” thì chỉ có cười lăn".

Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2016

Giọng nói Việt từ bắc vào nam



Tiếng nói, giọng nói là phản ánh bản sắc của mỗi vùng miền trong cùng một đất nước. Thông qua giọng nói người ta có thể phân biệt được người nói ở vùng quê nào và là tín hiệu đầu tiên để những người đồng hương nhận ra nhau. Có thể không được trau chuốt, mượt mà, nhưng với tiếng nói, giọng nói chân quê của những người cùng một vùng miền lại cảm thấy gần gũi và gắn bó với nhau hơn. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu được điều đó.



Giọng Miền Bắc:

D và GI phát âm như nhau /z/

Hiện tượng từ vựng tiếng Việt âm đầu "d - gi"

 - 1. Hệ thống chữ viết tiếng Việt ngày nay là một hệ thống chữ viết có nhiều ưu điểm, mà ưu điểm lớn nhất là một thứ chữ viết ghi âm vị, ghi các từ theo nguyên tắc ngữ âm học. Đó là một thứ chữ đơn giản, dễ học, dễ nhớ.

Giọng miền nào chuẩn nhất?

Tác·giả: Nguyễn·Tiến·Hải 

2016-12-04

Chúng ta đều biết rằng, giọng nói 3 miền Bắc, Trung, Nam đều có sự sai lệch so với giọng chuẩn Quốc gia Việt Nam, kể cả giọng Hà Nội. Giọng Hà Nội chưa bao giờ được quy định là giọng chuẩn của Việt Nam [8]. Câu hỏi đặt ra là giọng miền nào gần với giọng chuẩn nhất? Câu trả lời sẽ làm bạn bất ngờ.

Luật hỏi ngã trong tiếng Việt

Trong tiếng Việt chúng ta sử dụng tất cả 1270 âm tiết với dấu hỏi hoặc với dấu ngã, trong đó có 793 âm tiết (chiếm 62%) viết dấu hỏi, 477 âm tiết (38%) viết dấu ngã. Việc nắm được quy luật dấu hỏi và dấu ngã của lớp từ láy và lớp từ Hán Việt sẽ giúp ta giảm được nhiều lỗi chính tả.

I.  Từ láy và từ có dạng láy: 

•  Các thanh ngang (viết không có dấu) và sắc đi với thanh hỏi, ví dụ như: dư dả, lửng lơ, nóng nẩy, vất vả...

•  Các thanh huyền và nặng đi với thanh ngã, ví dụ như: tầm tã, lững lờ, vội vã, gọn ghẽ...

Quy tắc từ láy chỉ cho phép viết đúng chính tả 44 âm tiết dấu ngã sau đây:

Giọng phát âm chuẩn Tiếng Việt - NSƯT Hà Phương

Giọng đọc lời xướng đài tiếng nói Việt Nam của nghệ sĩ ưu tú Hà Phương (giọng nam).

Giọng phát âm chuẩn tất cả các phụ âm đầu L/N, S/X, CH/TR, R/D/GI, các vần và thanh điệu.

Hà Phương tên thật là Đào Ngọc Bích [1], là nhà báo, phát thanh viên của Đài tiếng nói Việt Nam. Ông nổi tiếng với giọng đọc truyền cảm trong chương trình đọc truyện đêm khuya của Đài tiếng nói Việt Nam và được đánh giá là người có giọng đọc vàng.

Hà Phương sinh năm 1940 tại huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam từ những năm 1960.

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016

“Cuộc chiến” chống nói... ngọng!

Thứ Năm, 06/10/2005 - 11:15
Dân trí - Từ lâu, câu chuyện về ngọng không phải chỉ đơn thuần để cười mà còn ẩn trong đó những tai hại không nhỏ. Thời gian vẫn trôi đi, dù các phương tiện truyền thông, các nhà sư phạm…đã tốn không ít công sức nhưng nói ngọng vẫn cứ tràn ngập ở nhiều vùng, nhiều nơi. Xem ra “cuộc chiến” chống ngọng vẫn còn một tương lai dài ở phía trước...

“Nà... nà... nà, nặn nội, nực nượng” là một số ít trong vô số những từ phát âm sai mà khán giả nghe được trong chương trình thời sự của đài truyền hình Việt Nam ngày 28/09. Có tới 5 người được phỏng vấn trong chương trình thời sự nói trên đã mắc lỗi này, trong đó có một người là sĩ quan quân đội và một người là Phó chủ tịch UBND huyện.

Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

"inh lả ơi sao noọng ơi" nghĩa là gì?

  

Bộc bạch Inh lả ơi


“Inh lả ơi” là một bài hát dân ca dân tộc Thái rất quen thuộc, hầu khắp cả nước đều biết đến. Chỉ với bốn nốt nhạc “son”, “la”, “đô”, “rê” mà nó đã tạo nên giai điệu uyển chuyển trữ tình làm say đắm lòng người. Và cũng chỉ vẻn vẹn hai câu “Khắp núi rừng Tây bắc sáng ngời, mùa xuân đến ngàn hoa hé cười” mà người người hát đi hát lại không thấy chán. Khi khúc ca được cất lên thì mọi người không kể trẻ già, gái trai đều nhịp nhàng bước vào vòng xoè truyền thống. Nghệ sỹ nhân dân Thanh Huyền đã rất thành công khi hát khúc dân ca này. Hồng Nhung là ca sỹ Việt Nam đầu tiên được mời tham dự Liên hoan âm nhạc Châu Á cũng nổi tiếng vì ca khúc Inh lả ơi. Khúc nhạc dân gian đó đã xuất hiện trong nhiều cuốn giáo trình dạy nhạc. Câu hát “Inh lả ơi, sao noọng ơi” đã được nhiều nhạc sỹ đưa vào bài hát của mình như “Inh lả ơi tôi nghe câu hát” của Nguyễn Cường, “Chào Sơn La” của Trần Hoàn, “Điệu xoè thương nhau” của Vương Khon… Cũng với khúc dân ca này, nhiều nhạc sỹ cũng đã thể hiện rất thành công với nhiều nhạc cụ khác nhau như Sacxophone (Trần Mạnh Tuấn), sáo trúc (Đinh Thìn)…


Nhưng, lời hát “Khắp núi rừng Tây bắc sáng ngời, mùa xuân đến ngàn hoa hé cười” cũng mới xuất hiện trong chiến dịch Tây Bắc, còn lời hát truyền thống như thế nào chúng ta còn chưa biết rõ, nghĩa của từ “inh lả” và “xao noọng” là gì cũng ít người thấu hiểu. Xin được bộc bạch cùng bạn đọc đôi chút suy nghĩ của mình về khúc hát dân ca này. Ngày xưa con gái Thái khi bước vào tuổi thiếu nữ cũng là lúc được bước lên “hạn khuống”, một sàn chơi giành riêng cho giới trẻ chưa lập gia đình. Ở đó họ sống rất hồn nhiên, được tự do giao tiếp, được tâm sự, hát đối đáp với các chàng trai trong cũng như ngoài bản. Và cũng ở đó họ khao khát và nảy nở tình yêu say đắm đến cháy bỏng. Họ coi “hạn khuống” là nơi thân thuộc mà thiêng liêng nhất của đời họ. Cho nên, khi đi lấy chồng họ rất hối tiếc; họ thường khóc, thậm chí còn trốn đi trong ngày “tẳng cẩu” (ngày động phòng). Họ cho rằng “Thóc đã đổ bồ chẳng đem quay lại gặt, gái đã lấy chồng không thể quay lại đùa vui” (Xống chụ xon xao), “Thời con gái quá ngắn ngủi so với cả cuộc đời” (Tản chụ xống xương). Khi đi lấy chồng, họ đều có những lời “giã từ hạn khuống”, dặn các em gái trẻ đừng để “sàn hiu quạnh”, vắng bóng các chàng trai…

Khi sinh hoạt hạn khuống, các cô gái thường chia thành hai lớp. Những cô lớn tuổi, đã có thâm niên hạn khuống gọi là “xao ưởi” nghĩa là lớp chị, còn các cô gái nhỏ tuổi mới bắt đầu làm quen với hạn khuống thì gọi là “xao noọng” nghĩa là lớp em. Và lớp chị gọi lớp em một cách âu yếm là “inh lả” có nghĩa là út thân thương. Cho nên, có thể nói rằng “Inh lả ơi, xao noọng ơi” chính là tiếng của các cô gái lớn tuổi sắp đi lấy chồng gọi lớp cô gái trẻ mới bước vào đời. Thế họ gọi làm gì? Trong các lời cổ của khúc dân ca Inh lả ơi có đoạn “…Méng căm ởn thuông bó phí phựa. Bửa bin khái hai pú dí duội. Chứa căn má xum xao ơi. Chứa căn ỉn au đới bók ban. Tản au đới xao báo nhăng nọi. Inh lả ơi, xao noọng ơi“. (Nghĩa là: Ve sầu vờn bông hoa sắc thắm. Bướm bay lượn quanh núi rợp rờn. Cùng đến đây, các em gái ơi. Cùng nhau chơi hết đời hoa ban. Chơi cho hết thời con gái trẻ. Inh lả ơi, xao noọng ơi). Thế đó, các chị sắp đi lấy chồng, sắp phải giã biệt cái thời khắc hồn nhiên và đẹp nhất của cuộc đời, dặn lại các em hãy chơi cho thoả thích, chơi cho hết mình kẻo rồi hối tiếc. Đó cũng chính là nội dung xuyên suốt của làn điệu dân ca Thái Inh lả ơi rất đỗi thân quen.


Về tác giả bài viết
Họ tên: Cà Chung
Sinh ngày 27 tháng 7 năm 1957
Dân tộc: Thái
Quê quán: Chiềng Ngần – Thành phố Sơn La – tỉnh Sơn La.
Hiện là Phó Giám đốc Trung tâm Tin học và Thông tin KHCN Sơn La, kiêm Trưởng ban biên tập các ấn phẩm Thông tin Khoa học và Công nghệ tỉnh Sơn La.

Tự sự của người nói ngọng

Ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí mất cơ hội kiếm việc bởi nói ngọng “l, n” là thực tế đã và đang diễn ra đối với nhiều người ở nơi làm việc.Xung quanh câu chuyện Hà Nội chữa nói ngọng, VietNamNet đã nhận được hàng trăm ý kiến phản hồi, tranh luận về việc có nên hay không nên sửa cách phát âm “l,n”. Nhiều trong số đó là chia sẻ của chính những người nói ngọng.

Người nghe khó lọt tai

“Tôi cũng là người sinh ra và lớn lên thuộc miền Bắc. Hiện giờ tôi đang sống và làm việc tại miền Nam. Tôi đã học xong đại học và cảm thấy thực sự nhục nhã khi mình nói ngọng. Điều này làm nghề nghiệp của tôi bị ảnh hưởng trầm trọng” – bạn đọc Hà Thị Tình tâm sự.

Chia sẻ về điều này, bạn đọc Trần Trung cho rằng: “Tôi đã thấy nhiều người sửa được lỗi "l,n" này, và khi sửa được thì giao tiếp sẽ tốt hơn. Khác với các trường hợp ngọng khác, trường hợp ngọng "l,n" này thường làm người nghe cảm thấy hơi sốc và khó lọt tai. Vì vậy, nếu sửa được thì sẽ rất tốt.

Tôi cũng ủng hộ rằng cần phải có chuẩn mực chung, như thế sẽ thuận tiên hơn cho việc giao tiếp. Tóm lại, lỗi nói ngọng này nhất thiết phải sửa, hãy hành động ngay hôm nay, để 10, 20 năm nữa khi các em nhỏ lớn lên và đi giao tiếp trong xã hội thì các em không phải mặc cảm tự ti vì các phản ứng của xã hội”.


Ứng viên dễ bị mất điểm khi đi phỏng vấn tuyển dụng với phát âm lẫn lộn "l, n" và khó khăn khi học ngôn ngữ nước ngoài. Ảnh có tính chất minh họa. Lê Anh Dũng 

Bị tẩy chay

Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2016

Đài Pháp bàn chuyện người ở Hà Nội ngọng L,N

24/11/2011 07:17 GMT+7
Đầu tháng 11/2011, tại Việt Nam nổi lên một cuộc tranh luận sôi động liên quan đến chủ trương xóa bỏ việc nói "ngọng" L/N. Ngòi nổ trực tiếp cho cuộc tranh luận này là kế hoạch xóa nói "ngọng" L/N, vừa được Sở GD-ĐT thành phố Hà Nội tiến hành tại 13 huyện ngoại thành Hà Nội trong năm học 2011-2012. Đây có thể là chương trình xóa bỏ một tập quán ngôn ngữ địa phương lệch chuẩn, ở quy mô lớn nhất từ trước đến nay.


NGHE ÂM THANH trao đổi của RFI với các nhà thơ, nhà giáo, nhà ngôn ngữ và nhà nghiên cứu văn hóa: Vương Trí Nhàn, Đoàn Thiện Thuật, Hoàng Dũng, Nguyễn Minh Thuyết, Phạm Cao Dương, Thanh Thảo...

Tại Việt Nam, không phân biệt được âm L với âm N, hay nói lẫn lộn hai âm này là một tập quán nói năng đa phần thường bị cười chê. Tuy nhiên, tập quán vốn rất phổ biến ở nhiều địa phương thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ này, có sức sống dai dẳng và đang có xu hướng lan rộng, gây lo ngại cho những ai muốn bảo vệ một cách nói tiếng Việt chuẩn mực.

Việc xóa bỏ cách nói lẫn lộn L/N tưởng như là một điều hiển nhiên không cần phải bàn cãi nhiều. Tuy nhiên, trong tháng 11 này, trong công luận đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi về chủ đề này. Ngòi nổ trực tiếp cho cuộc tranh luận này là kế hoạch xóa « ngọng » L/N, vừa được Sở Giáo dục – Đào tạo thành phố Hà Nội bắt đầu tiến hành tại 13 huyện ngoại thành Hà Nội trong năm học 2011-2012.

Thứ Hai, 21 tháng 3, 2016

Tiếng Nam, tiếng Bắc đang xích lại gần nhau

                     Hình minh họa (Nguồn: Link)

Có tổ hợp song âm nhưng tiếng Nam chọn yếu tố thứ nhất còn tiếng Bắc chọn yếu tố thứ hai: dơ bẩn, đau ốm, lời lãi, bao bọc, mai mối, hư hỏng, dư thừa, kêu gọi, sợ hãi, hình ảnh, la mắng, bồng bế, hăm dọa… còn đây là những tổ hợp ngược lại, người miền Bắc chọn yếu tố đầu, “nhường” người miền Nam chọn yếu tố sau: thóc lúa, giẫm đạp, đón rước, lừa gạt, sắc bén, lau chùi, thứ hạng, chăn mền, chậm trễ, tìm kiếm, vâng dạ, đùa giỡn, thuê mướn, mau lẹ, hung dữ, trêu chọc…Vì vậy, ta thường nghe hai cách nói khác nhau: cái đài này hỏng/ cái đài này hư; coi hình/ xem ảnh; cắt ruột thừa/ cắt ruột dư; kêu má/ gọi mẹ (về ăn cơm); chậm giờ/ trễ giờ (ra tàu); làm mau/ làm lẹ (lên); đón khách/ rước khách (đến chơi); trêu em/ chọc em (hoài); (con) dao sắc/ bén (quá); v.v.

Tác giả: PGS. TS Phạm Văn Tình

Tất nhiên là có khác (với những mức độ nhất định). người ta đặt ra các từ tiếng nếu không thì Nam, tiếng Bắc (cũng như tiếng Hà Nội, tiếng Sài gòn, tiếng Nghệ…) làm gì?

Thứ Bảy, 12 tháng 3, 2016

"Châu" hay "Chu"?

Phim kiếm hiệp cổ trang trước đây chủ yếu là miền Nam dịch, vì thế việc đọc là Châu Bá Thông, Châu Chỉ Nhược được phổ biến là do bản dịch miền Nam. Dịch giả Ngọc Thạch ở miền Bắc không chịu ảnh hưởng của bản dịch miền Nam (hoặc có đọc nhưng không chấp nhận âm miền Nam) nên vẫn dịch là Chu Bá Thông, Chu Chỉ Nhược.
 
Ngành giải trí trong miền Nam phát triển hơn miền Bắc, nên tên các diễn viên, ca sĩ nổi tiếng của Trung Quốc được miền Nam dịch trước cũng là chuyện dễ hiểu, vì thế, Châu Nhuận Phát, Châu Kiệt Luân xuất hiện. Đồng thời, các bạn cũng có thể thấy Huỳnh Hiểu Minh, Huỳnh Dịch (miền Nam kiêng tên chúa Nguyễn Hoàng nên đọc chệch thành Huỳnh – điều này nhiều người biết). Việc đọc là "Huỳnh Hiểu Minh" bị "lan tràn" hoàn toàn do ảnh hưởng âm miền Nam, và dần dần thành thói quen, chứ không bị ảnh hưởng của âm phổ thông như chu-châu.
 
 

Tác·giả: Lê·Huy·Hoàng   
2010-11-09
Cho tới nay, một số chữ Hán vẫn tồn tại hai cách đọc Hán Việt, xét về mặt ý nghĩa thì không có sự phân bý nghĩa của hai âm đọc đó 
 
 

(tức là dù đọc âm nào thì ý nghĩa vẫn như nhau). Ở đây tôi khảo sát hai âm đọc thường gặp là Châu và Chu.
 
1. Khảo âm:

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2016

Hai tiếng "Việt kiều"

Tác giả: Dũng Vũ

Không biết hai tiếng "Việt kiều" đã ra đời bao giờ và ai là tác giả. Người ta chỉ biết nó đã được đẻ ra để chỉ người Việt sống ở hải ngoại. Lâu nay nó đã được dùng khắp xã hội như một cái tên gọi bình thường.

Thực ra, "Việt kiều" là một sản phẩm ngôn ngữ khác thường. Khác thường từ cú pháp (syntax) cho tới dụng ngôn (pragmatic), từ ngữ nghĩa (semantic) cho tới văn hóa.

Chữ "Việt" thì ai cũng biết, còn "kiều" có nghĩa là gì ?

Kiều là một từ gốc Hán. Theo Từ điển Hán-Việt của Thiều Chửu [1] và Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh [2] , từ đồng âm này có nhiều nghĩa, ví dụ, cái cầu 橋, cái lông dài ở đuôi chim 翘, v.v… Nhưng dùng cho từ ghép "Việt kiều", thì "kiều" 僑 có nghĩa là ở đậu, ở nhờ một làng, một nước nào đó.

Như vậy, "Việt kiều" có nghĩa là người Việt ở đậu, ở nhờ.

Thứ Năm, 19 tháng 12, 2013

Dạy chữ Hán hay dạy từ Hán-Việt?

Tác·giả: Nguyễn·Đức·Dân

Trên Tuổi trẻ cuối tuần (26.06.2010) PGS TS Đoàn Lê Giang viết bài “Cần khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường”, trong đó nói người Hàn và người Nhật cũng dạy chữ Hán cho học sinh trung học. Tác giả viết “chừng nào chúng ta còn coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc, chừng nào chúng ta còn nhìn các nước Đông Á như những cái mốc cần phải đuổi kịp thì chừng ấy chúng ta còn cần phải dạy chữ Hán”. Tôi đồng ý một phần với bài viết này: Trong trường trung học cần dạy từ Hán-Việt nhưng không cần dạy chữ Hán.

Người Hàn, người Nhật dạy chữ Hán cho học sinh trung học là cần thiết nhưng người Việt thì không vì chữ Việt không giống chữ Hàn hay chữ Nhật.

Hangul là chữ viết của người Hàn, cũng là thứ chữ ghi âm. Cũng như tiếng Việt, rất nhiều từ tiếng Hàn có gốc Hán. Tiếng Hán có 4 thanh còn tiếng Hàn không có thanh điệu nên những từ cùng vần khác thanh khi nhập vào tiếng Hàn sẽ thành những từ đồng âm, dẫn tới nhiều hiện tượng mơ hồ trên mặt chữ. Khi cần chính xác, trong những văn bản khoa học người ta thường chua thêm chữ Hán sau những cụm từ quan trọng. TS Trần Văn Tiếng nêu ví dụ: Trong tiếng Hàn, có nhiều từ phát âm là sung nên công ty Samsung khi viết từ này đã phải chua chữ Hán tinh vào cuối để người đọc hiểu rằng Samsung là tam tinh. Logo của Samsung là ba ngôi sao. Không biết những chữ Hán cơ bản thì chính người Hàn cũng không đọc hiểu được chữ Hàn nên học sinh Hàn cần học tiếng Hán. Còn người Việt không biết chữ Hán vẫn có thể đọc thông thạo chữ Việt dù không hiểu một số từ nào đó. Hiện nay nhiều người dùng sai từ Hán-Việt vì không hiểu nghĩa của chúng chứ không phải vì không biết chữ Hán. Chúng ta chỉ cần biết nghĩa chứ không cần biết mặt chữ Hán của những từ Hán-Việt (từ Việt gốc Hán). Nhiều nhà nghiên cứu nói rằng, trong tiếng Việt có khoảng 60% - 70% từ gốc Hán. Có học 1000 chữ Hán thì vẫn

Thứ Ba, 28 tháng 5, 2013

Tản·mạn về ngôn·ngữ địa·phương Hà·Tĩnh

Tác·giả: Tống·Trần·Tùng

Phần 1:
Rất nhiều người Hà Tĩnh khi mới ra Bắc vào Nam, nhất là ra Hà Nội hay vào thành phố Hồ Chí Minh để học tập hoặc lập nghiệp, thường ngượng ngùng, lúng túng trong giao tiếp bởi cái “tiếng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để” của họ làm cho người được đối thoại nhiều khi không hiểu. Ấy là những người đó khi nói, mới chỉ có giọng nói và ngữ điệu là “Hà Tĩnh”, còn từ dùng thì chủ yếu là từ phổ thông. Còn nếu họ nói “đặc sệt” “tiếng Hà Tĩnh”, tức là cả ngữ điệu và từ dùng đều là ngôn ngữ địa phương, thì chắc rằng người nghe sẽ ngớ ra cứ như nghe một thứ ngôn ngữ không phải là tiếng Việt vậy. Lúng túng là chuyện thường tình khi mà giao tiếp không suôn sẻ do ngôn ngữ bất đồng. Nhưng liệu có phải ngượng ngùng, xấu hổ đến nỗi cho rằng cái mô tê răng rứa là ngô nghê quê mùa?

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2012

Những từ dùng sai trong ngôn·ngữ Việt·Nam

1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt.
*CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
*KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.
*QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
*HUYỀN THOẠI.