Hiển thị các bài đăng có nhãn Về Nguồn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Về Nguồn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

Về Nguồn - Hành-trình Việt-ngữ ABC

(phần 2 trong sách Về Nguồn)

Tác-giả: Đoàn-Xuân


Dẫn-nhập


Học tiếng Việt/Hán-Nôm sang tiếng Việt/Việt-ngữ abc, nên quan-niệm như nhà hoá-học Pháp Lavoisier (1743-1794): “Rien ne se perd, rien ne se crée, tout se transforme” (Chẳng mất mà cũng chẳng còn, chỉ biến-đổi lẫn nhau mà thôi).

Học ngôn-ngữ chia ra làm hai phần rõ-rệt để nhận-định:

- Phần hình-thức: là phần công-truyền, ai học cũng được, học để biết nói, biết đọc và biết viết. Ví-dụ: Ai cũng biết người Việt nói tiếng Việt, người Mỹ nói tiếng Anh,…nhưng khi nghe có hiểu được hay không là một chuyện khác. Nghe, sờ, thấy,… là hình-thức; hiểu là nội-dung hay ý-nghĩa, phải dùng đến lý-trí.

- Phần nội-dung: là phần ý-nghĩa của các ký-hiệu ngôn-ngữ.

Về Nguồn

Sách của tác-giả: Đoàn-Xuân

Khảo-sát dấu ngang-nối trong Việt-ngữ ABC


Khả dữ ngôn, nhi bất dữ chi ngôn, thất nhân;
bất khả dữ ngôn, nhi dữ chi ngôn, thất ngôn’
(Người nào mình đáng nói chuyện với người-ta mà không nói, là mất người; người nào mình không đáng nói chuyện với người ta mà nói, là mất lời. Khổng Tử, Luận Ngữ: Vệ Linh Công)

Câu-hỏi: Sự quan-trọng của dấu ngang-nối trong tiếng Việt/chữ Việt abc?

Trả-lời: Dấu ngang-nối là ký-hiệu ngôn-ngữ duy-nhất trong Việt-ngữ abc, từ sau ngày phát-minh (gần 400 năm), người họcViệt-ngữ (hơn 80 triệu) chỉ biết được phần hình-thức (= ngang ngắn giữa hai hay nhiều chữ) nhưng không-thể hiểu rõ-ràng được nội-dung của nó (= xác-định ngữ-âm [= ngữ-căn, ý-nghĩa] và ngữ-pháp [= văn-phạm] Hán-Tạng khác nghĩa với Nam-Á).

Hơn 99.99% người Việt không dốt tiếng Việt/chữ Việt abc (= biết nói, đọc, viết), họ mù (= không hiểu đúng ý-nghĩa) chữ Việt abc; chỉ có gần 0.01% kẻ hiểu tiếng Việt/Việt-ngữ abc.

Thứ Năm, 5 tháng 5, 2011

Về Nguồn - Vài nhận-xét về danh-từ Việt-ngữ

(Đây là phần 5 trong sách Về Nguồn)

Tác-giả: Đoàn-Xuân


A. Giống của danh-tự 


Trong Việt-ngữ chỉ có một số ít danh-tự chỉ giống, và đặc-biệt nhất là chỉ dùng cho người và động-vật mà thôi, không dùng cho thực-vật (ngoại-trừ vài trường-hợp đặc-biệt để chỉ vài loại cây ăn-qả hơi khác nhau như cây đu-đủ đực (có bông mà không có trái ăn-được) và cây đu-đủ cái), và nhất là không áp-dụng cho đồ-vật. Ví-dụ như ta gọi cái bàn, cái ghế,... chữ ‘cái’ là mạo-tự chỉ đơn-vị, chứ không phải để chỉ giống-loại; khác “cái" và “con" là mạo-từ chỉ giống-loại.

Về Nguồn - Chữ ghép trong Việt-ngữ ABC

Tác-giả: Đoàn-Xuân
Nói đến ngôn-ngữ là nói đến thứ-tự từ tiếng-nói đến chữ-viết. Tiếng-nói phải có trước chữ-viết. Trong danh-từ Hán-Việt, ngôn là một phần của chữ ‘ngữ’, nói rõ hơn chữ ‘ngôn’ biến thành ‘bộ ngôn’ của chữ ‘ngữ’. Và như thế ta lại có hai qan-niệm khác nhau về ngôn-ngữ, một nhóm chuyên về cách diễn-tả bằng lời nói, và chủ-trương rằng tiếng Việt vốn là đa-âm, thường cho rằng dấu ngang-nối trong cách thành-lập chữ-ghép là không cần-thiết; một nhóm khác lại chú-trọng về cách viết, và nhất là không cho tiếng Việt là đa-âm, lại chú-trọng có những chữ-ghép thì cho rằng dấu ngang-nối là phần qan-trọng trong cách tạo thêm danh-từ đa-âm để phù-hợp với trào-lưu tiến-hóa của người Việt. Nhóm ‘ngôn-văn’ thì chỉ chú-trọng về lời nói cho nên khi cần giải-thích cho người khác hiểu được tất phải nói nhiều và thường có ví-dụ kèm theo; ngược lại, nhóm ‘ngữ-văn’, chú-trọng chữ viết, thì chủ-trương dùng dấu ngang-nối để giải-quyết vấn-đề thành-lập của chữ-ghép.

Về Nguồn - Dấu ngang-nối trong Việt ngữ

(là phần 4 trong sách Về Nguồn)

Tác-giả: Đoàn-Xuân

Thông-thường những sự xích-mích hay xảy ra đều do sự hiểu lầm. Mà sự hiểu lầm là do sự dùng tiếng-nói hay chữ-viết không đúng với ý-nghĩa muốn diễn-đạt. Mà tiếng-nói hay chữ-viết muốn được chuẩn-xác tất phải qay về ngữ-căn (nguồn-gốc) của nó. Tiếng Việt-nam có riêng nguồn-gốc của nó: Hán-Tạng hay Nam-Á. Nhưng chữ Việt lại là một sự đồng-hóa vĩ-đại: dùng cả chữ Hán, chữ Nôm, và dùng cả chữ La-tinh để phiên-âm.

Âm-thanh (tiếng-nói) không thay-đổi nhiều (tùy vùng nhưng vẫn thống-nhất) nhưng ký-hiệu (chữ-viết) thay-đổi theo thời-đại.