Hiển thị các bài đăng có nhãn Đoàn Xuân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đoàn Xuân. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

Tường·thuật về Hội·nghị Quốc·tế về "Tiếng Việt: Lịch·sử và Giảng·dạy",USA, tháng 7 năm 2007

Tác·giả: Tâm·Việt 
Hội·nghị Quốc·tế về “Tiếng Việt: Lịch·sử và Giảng dạy” đã khai·mạc trọng·thể sáng thứ Bảy 30 tháng 6 tại Viện Việt·học trên đường Brookhurst, Westminster, California. Vì đây là lần đầu một hội·nghị quốc·tế về đề·tài nói trên được tổ·chức ở hải·ngoại nên sinh·hoạt này cũng đã thu hút được sự chú ý của một số chuyên·gia hàng đầu của Việt·nam ở nước ngoài, nhất là ở Mỹ, về những vấn·đề như Hán·Nôm hay các địa·tầng ngôn ngữ trong lịch·sử tiếng Việt, chữ Quốc·ngữ và tương·lai của tiếng Việt v.v. trong phần đầu của hội·nghị đã diễn ra trong cuối tuần qua.

Về Nguồn - Hành-trình Việt-ngữ ABC

(phần 2 trong sách Về Nguồn)

Tác-giả: Đoàn-Xuân


Dẫn-nhập


Học tiếng Việt/Hán-Nôm sang tiếng Việt/Việt-ngữ abc, nên quan-niệm như nhà hoá-học Pháp Lavoisier (1743-1794): “Rien ne se perd, rien ne se crée, tout se transforme” (Chẳng mất mà cũng chẳng còn, chỉ biến-đổi lẫn nhau mà thôi).

Học ngôn-ngữ chia ra làm hai phần rõ-rệt để nhận-định:

- Phần hình-thức: là phần công-truyền, ai học cũng được, học để biết nói, biết đọc và biết viết. Ví-dụ: Ai cũng biết người Việt nói tiếng Việt, người Mỹ nói tiếng Anh,…nhưng khi nghe có hiểu được hay không là một chuyện khác. Nghe, sờ, thấy,… là hình-thức; hiểu là nội-dung hay ý-nghĩa, phải dùng đến lý-trí.

- Phần nội-dung: là phần ý-nghĩa của các ký-hiệu ngôn-ngữ.

Về Nguồn - Thuật nhi bất tác

(là Phần 1 trong sách Về Nguồn)

Tác-giả: Đoàn-Xuân 


(= Thuật-thuyết [bộ sước, bộ ngôn]: Ghi lại và giải-thích).

‘Khả hồ khả, (Được là được)
Bất khả hồ bất khả.’ (Không được là không được)

‘Vật cố hữu sở nhiên, (Vật, có chỗ là phải vậy)
Vật cố hữu sở khả. (Vật, có chỗ là được vậy)
Vô vật bất nhiên, (Không vật nào là không phải vậy)
Vô vật bất khả.’ (Không vật nào là không được vậy)

(Trang Tử, Nam-hoa-kinh, Tề-vật-luận).

* Những dòng chữ đang xuất-hiện trước mắt quý-vị có được sự lĩnh-hội và thực-hành của quý-vị hay không, rất ảnh-hưởng vào vận-mệnh văn-hóa Việt-nam sẽ như thế nào? Điều chắc-chắn ở đây là có hơn 99.99% người viết sách, làm thơ, soạn tự-điển (hay từ-điển) không biết dùng dấu gạch-nối sẽ chống-đối, với lý-do: ‘vạch áo cho người xem lưng’ (để lộ cái không hay cho người khác chê-cười), hay ‘chẳng ai nhận chĩnh mắm thối’.

Về Nguồn

Sách của tác-giả: Đoàn-Xuân

Khảo-sát dấu ngang-nối trong Việt-ngữ ABC


Khả dữ ngôn, nhi bất dữ chi ngôn, thất nhân;
bất khả dữ ngôn, nhi dữ chi ngôn, thất ngôn’
(Người nào mình đáng nói chuyện với người-ta mà không nói, là mất người; người nào mình không đáng nói chuyện với người ta mà nói, là mất lời. Khổng Tử, Luận Ngữ: Vệ Linh Công)

Câu-hỏi: Sự quan-trọng của dấu ngang-nối trong tiếng Việt/chữ Việt abc?

Trả-lời: Dấu ngang-nối là ký-hiệu ngôn-ngữ duy-nhất trong Việt-ngữ abc, từ sau ngày phát-minh (gần 400 năm), người họcViệt-ngữ (hơn 80 triệu) chỉ biết được phần hình-thức (= ngang ngắn giữa hai hay nhiều chữ) nhưng không-thể hiểu rõ-ràng được nội-dung của nó (= xác-định ngữ-âm [= ngữ-căn, ý-nghĩa] và ngữ-pháp [= văn-phạm] Hán-Tạng khác nghĩa với Nam-Á).

Hơn 99.99% người Việt không dốt tiếng Việt/chữ Việt abc (= biết nói, đọc, viết), họ mù (= không hiểu đúng ý-nghĩa) chữ Việt abc; chỉ có gần 0.01% kẻ hiểu tiếng Việt/Việt-ngữ abc.

Thứ Năm, 5 tháng 5, 2011

Về Nguồn - Vài nhận-xét về danh-từ Việt-ngữ

(Đây là phần 5 trong sách Về Nguồn)

Tác-giả: Đoàn-Xuân


A. Giống của danh-tự 


Trong Việt-ngữ chỉ có một số ít danh-tự chỉ giống, và đặc-biệt nhất là chỉ dùng cho người và động-vật mà thôi, không dùng cho thực-vật (ngoại-trừ vài trường-hợp đặc-biệt để chỉ vài loại cây ăn-qả hơi khác nhau như cây đu-đủ đực (có bông mà không có trái ăn-được) và cây đu-đủ cái), và nhất là không áp-dụng cho đồ-vật. Ví-dụ như ta gọi cái bàn, cái ghế,... chữ ‘cái’ là mạo-tự chỉ đơn-vị, chứ không phải để chỉ giống-loại; khác “cái" và “con" là mạo-từ chỉ giống-loại.

Hãnh-diện với Việt-ngữ ABC

Tác-giả: Đoàn-Xuân


1. Dẫn-nhập


Nếu có thì-giờ suy-nghĩ về Việt-ngữ, ta thấy tổng-số chữ Tàu vào khoảng 9,812 và phát-âm thành 1,307 tiếng, cũng trong số chữ đó người Việt phát-âm thành 2,033 tiếng. Nhưng đó chỉ là cái gốc mà thôi, người Việt còn biết dựa vào chữ Tàu để cải-hóa thành chữ Nôm, thêm được vào khoảng hơn 4,000 âm/hơn 30,000 chữ nữa. Như vậy tiếng Việt nhiều hơn tiếng Tàu ít nhất là hơn 4,000 tiếng gốc Nam-Á ( = Nôm).
Hơn một tỷ dân Tàu, từ mấy nghìn năm nay, với 9,000 chữ, rồi ghép tới ghép lui, chữ Tàu càng ngày càng tiến-bộ, và lúc nào cũng đủ chữ để dùng cho kịp với trào-lưu tiến-hóa của nhân-loại.
Tiếng Việt chắc-chắn không thua, bởi-vì ngoài tiếng và chữ Tàu là cái gốc đã Việt-hóa, thêm chữ Nôm qá nhiều, thì tiếng Việt không kém bất-cứ một ngôn-ngữ nào của thế-gian nầy.
Một ngôn-ngữ lớn là một sinh-ngữ có nhiều người sử-dụng và lịch-trình sử-dụng lâu đời. Tiếng Tàu được liệt-kê vào loại đó, hơn cả tiếng Anh và tiếng Pháp nữa.
Nếu so-sánh với tiếng Việt, tiếng Tàu chỉ được 1/3 mà thôi.

Vài công-thức đáng nhớ khi học Việt-ngữ ABC

Tác-giả: Đoàn-Xuân

1. Từ-ghép và cụm-từ

Từ-ghép: A + B = C. Đọc là: A liên-hệ với B.
Cụm-từ: A B = A B. Đọc là: A tương-qan với B.
* Trong ‘A liên-hệ với B’ là chữ-ghép (phối-vận), phải có gạch-nối, cùng nhiệm-vụ văn-phạm, ngữ-căn không thay-đổi.
* Trong ‘A tương-qan với B’ là chữ-đơn (đơn-vận), không có gạch-nối, khác nhiệm-vụ văn-phạm, ngữ-căn thay-đổi.
2. Về dấu ngang-nối
Dấu ngang-nối = Xác-định văn-phạm + Xác-định ngữ-căn.
* Xác-định văn-phạm ( = ngữ-pháp, hình-nhi-hạ) => đơn-vận hay đa-vận ( = phối-vận) để biết nhiệm-vụ.
* Xác-định ngữ-căn ( = ngữ-âm, hình-nhi-thượng) => đơn-vận hay đa-vận ( = phối-vận) để hiểu ngữ-căn ( = ý-nghĩa).
* Việt-ngữ có hai loại ngữ-âm và ngữ-pháp: Hán-Tạng hay Nam-Á, chúng khác ý-nghĩa với nhau.
* Không dùng ngữ-âm và ngữ-pháp Hán-Tạng là Nam-Á.
Hơn 99.99% người Việt không dốt, họ mù chữ Việt abc.
Người ngu-xuẩn không hiểu cái khôn cuả kẻ khác, nhưng chỉ bọn ngu-giành thì không hiểu cái ngu cuả người khác.
Nguồn: http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:hc124I22_REJ:tvvn.org

Xem thêm:


Về Nguồn - Chữ ghép trong Việt-ngữ ABC

Tác-giả: Đoàn-Xuân
Nói đến ngôn-ngữ là nói đến thứ-tự từ tiếng-nói đến chữ-viết. Tiếng-nói phải có trước chữ-viết. Trong danh-từ Hán-Việt, ngôn là một phần của chữ ‘ngữ’, nói rõ hơn chữ ‘ngôn’ biến thành ‘bộ ngôn’ của chữ ‘ngữ’. Và như thế ta lại có hai qan-niệm khác nhau về ngôn-ngữ, một nhóm chuyên về cách diễn-tả bằng lời nói, và chủ-trương rằng tiếng Việt vốn là đa-âm, thường cho rằng dấu ngang-nối trong cách thành-lập chữ-ghép là không cần-thiết; một nhóm khác lại chú-trọng về cách viết, và nhất là không cho tiếng Việt là đa-âm, lại chú-trọng có những chữ-ghép thì cho rằng dấu ngang-nối là phần qan-trọng trong cách tạo thêm danh-từ đa-âm để phù-hợp với trào-lưu tiến-hóa của người Việt. Nhóm ‘ngôn-văn’ thì chỉ chú-trọng về lời nói cho nên khi cần giải-thích cho người khác hiểu được tất phải nói nhiều và thường có ví-dụ kèm theo; ngược lại, nhóm ‘ngữ-văn’, chú-trọng chữ viết, thì chủ-trương dùng dấu ngang-nối để giải-quyết vấn-đề thành-lập của chữ-ghép.

Về Nguồn - Dấu ngang-nối trong Việt ngữ

(là phần 4 trong sách Về Nguồn)

Tác-giả: Đoàn-Xuân

Thông-thường những sự xích-mích hay xảy ra đều do sự hiểu lầm. Mà sự hiểu lầm là do sự dùng tiếng-nói hay chữ-viết không đúng với ý-nghĩa muốn diễn-đạt. Mà tiếng-nói hay chữ-viết muốn được chuẩn-xác tất phải qay về ngữ-căn (nguồn-gốc) của nó. Tiếng Việt-nam có riêng nguồn-gốc của nó: Hán-Tạng hay Nam-Á. Nhưng chữ Việt lại là một sự đồng-hóa vĩ-đại: dùng cả chữ Hán, chữ Nôm, và dùng cả chữ La-tinh để phiên-âm.

Âm-thanh (tiếng-nói) không thay-đổi nhiều (tùy vùng nhưng vẫn thống-nhất) nhưng ký-hiệu (chữ-viết) thay-đổi theo thời-đại.