Hiển thị các bài đăng có nhãn phương ngữ Nghệ Tĩnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn phương ngữ Nghệ Tĩnh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2016

Có một giọng Trung chuẩn hơn Hà Nội, Huế, Sài Gòn?

01/11/2015 18:00 GMT+7
Tác giả: Chung Hai
Báo Tuổi trẻ
TTO - Một người bạn của tôi kể một chuyện quen thuộc quê mình, một huyện ở Quảng Nam: khi thầy cô hay có vị khách nào vào lớp, lớp trưởng ở Quảng Nam hô: "Học sinh đứng...", cả lớp đáp vang: "Thẻng" (thẳng).

BTV Hoài Anh (bìa trái) cùng hai đồng nghiệp đoạt giải Người dẫn chương trình được yêu thích trong năm 2009 do tạp chí Truyền Hình - Đài truyền hình VN tổ chức - Ảnh: Hải Hưng
Ngay tôi, có lần đưa một người bạn quê Tam Kỳ (Quảng Nam) lần đầu tiên vô Sài Gòn-Chợ Lớn chơi, gặp quầy bán vịt lạp, người bạn này buột miệng: "Cho (cha), con chi như con bo bo (ba ba)". Hoặc như bạn Trần Tình nhận định: "Càng vào sâu Khu 5 thì phát âm càng xa với âm gốc. Số ĐT là 347817 mà đọc là “ba bốn bữa té một bữa” thì chỉ có cười lăn".

Thứ Hai, 17 tháng 1, 2011

Đặc·điểm ngữ·âm phương·ngữ Nghệ·Tĩnh với việc nghiên·cứu lịch·sử tiếngViệt

Tác·giả: TS. Nguyễn·Hoài·Nguyên

1. Dẫn nhập
Các kết quả nghiên cứu lịch sử tiếng Việt cho thấy các nhà ngữ học đã tiếp cận vấn đề theo nhiều hướng khác nhau. Có thể xuất phát từ mảng từ Hán- Việt để tìm hiểu diễn biến của hệ thống âm đầu tiếng Việt như H. Maspero (1912), Nguyễn Tài Cẩn(1977, 1995). Có thể tiếp cận từ tiếng tiền Việt- Mường đến tiếng Việt hiện đại như A.Haudricourt(1953, 1954), M.Ferlus(1975, 1981, 1995), Phạm Đức Dương (1979, 1983), Trần Trí Dõi (1987, 1991, 2005). Có thể xuất phát từ các thư tịch cổ, trước hết là các tư liệu chữ Hán, chữ Nôm như Lê Quán(1973), Vương Lộc(1989, 1995), Nguyễn Ngọc San(1985, 2003). Cũng có thể xuất phát từ các ngôn ngữ họ hàng với tiếng Việt như tiếng Mường, tiếng Thổ, tiếng Cuối, tiếng Chứt…và các ngôn ngữ Môn-khmer khác như cách làm của H.Maspero(1912),A.Haudricourt(1953,1954),M.Ferlus(1981),N.K.Xokolovskaja(1976, 1978). Có thể xuôi dòng lịch sử: từ nguyên sơ, tức là từ ngôn ngữ tiền Việt- Mường đến tiếng Việt hiện đại theo cách của H.Maspero(1912), M.Ferlus(1981), Trần Trí Dõi(2005). Cũng có thể ngược dòng lịch sử, từ hiện đại trở về nguyên sơ như cách của Nguyễn Tài Cẩn(1995), Nguyễn Ngọc San(2003). Cùng với những hướng tiếp cận trên, có thể nghiên cứu lịch sử tiếng Việt từ góc độ phương ngữ học.


Phương ngữ học Việt đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lịch sử phát triển tiếng Việt qua những nghiên cứu, đối chiếu các hiện tượng ngôn ngữ giữa các vùng, các miền đất nước. Sự tồn tại và đang hành chức của một phương ngữ và giữa các phương ngữ có một mối liên hệ về lịch sử bởi vì Lịch sử tiếng Việt tìm thấy trên bản đồ phương ngữ sự ánh xạ trong không gian của sự diễn biến của nó trong thời gian [3, tr. 28]. Dĩ nhiên, cái hình ảnh lịch sử qua không gian chỉ là một khái niệm tương đối thể hiện những đặc điểm nào đó của các thời kì khác nhau của một ngôn ngữ chứ không phải thể hiện một cách trọn vẹn các giai đoạn khác nhau ấy. Nhưng trong điều kiện tư liệu quá ít ỏi thì những yếu tố bảo lưu còn vương lại ở những mảnh biến thể địa phương của tiếng Việt đương đại cũng có thể cho phép người nghiên cứu tái lập những dạng ngôn ngữ ở các thời điểm phát triển đã có trong diễn trình tiếng Việt. Vậy là, trong các phương ngữ Việt, phương ngữ Nghệ Tĩnh(PNNT) là một trong vài phương ngữ hiếm hoi còn bảo lưu nhiều yếu tố cổ, thậm chí rất cổ của tiếng Việt ở các giai đoạn trước đây. Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã xác nhận điều đó: Trong các vùng phương ngữ Việt, vùng phương ngữ Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Trị Thiên có một vị trí đặc biệt: đây là vùng hiện còn giữ rất nhiều nét cổ. Có thể coi đây là một kho tàng cứ liệu có thể giúp ích được rất nhiều cho việc nghiên cứu lịch sử ngữ âm tiếng Việt giai đoạn khá xa xưa( cách đây năm trăm năm trở lên) [1, tr. 14]. Bài viết này nêu vài suy nghĩ về lịch sử ngữ âm tiếng Việt từ các đặc điểm ngữ âm PNNT.

2. Vị trí của phương ngữ Nghệ Tĩnh trong các vùng phương ngữ Việt