Hiển thị các bài đăng có nhãn tính xấu người Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tính xấu người Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2016

Người Việt Nam thế kỷ XIX qua lăng kính một sử gia Nhật Bản

Tác·giả: Nguyễn·Mạnh·Sơn
Người An Nam không có ý nỗ lực tấn tới, mà lại còn không biết biện biệt sự lợi hay hại, nên hay hư. Việc buôn bán trong nước, họ đều phó cho người Tàu, không ngó ngàng đến. Người Tàu ở đó hay rủ nhau hùn vốn lập công ty để buôn. Buôn có lời, họ lại chia ra và lập thêm công ty khác. Còn người bản xứ thì sẵn tánh khinh bạc, hay nghi ngờ nhau, chống báng nhau, không lập công ty được; cho nên mối lợi trong nước đành phải để cho người Tàu tóm thâu. Người trong nước ưa lấy sự trá ngụy để lừa dối nhau, không ai tin ai được cả. Rất đỗi bà con quen thuộc cũng không có thể tin cậy nhau được.



Pháp Việt giao binh ký – Một tài liệu quý cho sự tu sử nước nhà

Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.

Thứ Ba, 29 tháng 3, 2016

Những điểm yếu của sĩ phu Việt

Viết chữ ngày xuân. Nguồn: yeunhiepanh.net

Nguyễn Cảnh Bình
Tia Sáng
11:48' SA - Thứ hai, 28/03/2016

Kỳ trước (Tia Sáng số 05/3/2016) đã đề cập về thất bại của giới sĩ phu Việt Nam trong việc hình thành chữ viết cho đại chúng, bài viết lần này mở rộng hơn, nói về thất bại của giới sĩ phu Việt trong dẫn dắt quá trình văn minh hóa dân tộc, tạo hình mẫu cho sự phát triển của các nhóm người khác…

Thứ Tư, 17 tháng 2, 2016

Encyclopædia Britannica 1911: "Người Việt ưa nhàn hạ, giả dối, và không thể xa nhà lâu"

"Mặc dù thích nhàn hạ nhưng người An Nam chăm chỉ hơn những dân tộc láng giềng...Họ tỏ ra kính trọng bề trên và cha mẹ, nhưng họ không chân thật và không có cảm xúc mạnh. Họ yêu quê hương, xóm làng, và không thể ở xa nhà lâu ngày. Những thói hư của họ gồm có cờ bạc, hút thuốc phiện, một chút kiêu căng và giả dối. Nhìn chung thì họ hoà nhã, dễ chịu, và thậm chí là thờ ơ, nhưng đáng nói là họ có thể học rất dễ dàng." (Wikipedia tiếng Việt)
Nguyên văn:
"Though fond of ease the Annamese are more industrious than the neighbouring peoples. Theatrical and musical entertainments are popular among them. They show much outward respect for superiors and parents, but they are insincere and incapable of deep emotion. They cherish great love of their native soil and native village and cannot remain long from home. A proneness to gambling and opium-smoking, and a tinge of vanity and deceitfulness, are their less estimable traits. On the whole they are mild and easy-going and even apathetic, but the facility with which they learn is remarkable. Like their neighbours the Cambodians and the Chinese, the Annamese have a great respect for the dead, and ancestor worship constitutes the national religion. The learned hold the doctrine of Confucius, and Buddhism, alloyed with much popular superstition, has some influence. Like the Chinese the Annamese bury their dead." (https://en.wikisource.org/wiki/1911_Encyclop%C3%A6dia_Britannica/Annam)





Thứ Tư, 10 tháng 2, 2016

Người Bắc hám danh, người Nam ham học?

Tác·giả: Nguyễn Văn Tuấn
 

Hám danh và ham học

Tôi thấy khi bàn về sự mất cân đối trong phân bố các phẩm hàm giáo sư và tài trợ khoa học (xem bài trước: Northern Affairs (Vụ áp·phe miền Bắc)), có vài ý kiến cho rằng vì người Bắc ham học, nên ngoài đó có nhiều giáo sư là điều dễ hiểu. Đó là một ý kiến thú vị. Nhưng tôi nghĩ cần phải phân biệt giữa hám danh và ham học.

Hám danh dĩ nhiên có nghĩa là muốn có danh vọng bằng mọi giá và trong mọi tình huống. Họ là những người đi đâu cũng kè kè theo những danh xưng trước tên. Chẳng những thế, họ còn bắt buộc người khác phải xưng hô với họ bằng những danh xưng. Họ là những người bằng mọi cách và mọi giá để có phẩm hàm, kể cả mua. Ngày xưa Nguyễn Công Trứ từng nói “Làm trai đứng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông”, và cái câu đó gần như là kim chỉ nam cho người Việt, đặc biệt là người ngoài Bắc.

Thứ Tư, 3 tháng 2, 2016

Tết, lúc người Việt… khiếm nhã nhất

01/02/2016  02:00 GMT+7
 Người Việt có thói quen quan tâm tới cuộc sống cá nhân của nhau. Nhưng điều này không phải phù hợp, thậm chí thành khiếm nhã. Tết là dịp điều này thể hiện rõ nhất.
Bao giờ lấy chồng? bao giờ đẻ con? 

Thứ Tư, 8 tháng 7, 2015

Tại sao khó có thể tự hào là người Việt Nam?

Tác·giả: Nguyễn·Văn·Tuấn
2014-09-29
Photo from danlambao
Đề tài này có thể rất tế nhị. Nếu là người Việt mà nói "tôi không tự hào là người Việt" thì chắc chắn sẽ bị "ném đá" như Hồi giáo ném đá những người ngoại tình. Một cuốn sách có tựa đề là "Tôi tự hào là người Việt Nam" mới xuất bản và đã bán hết 10000 cuốn đủ để nói đề tài này làm ấm lòng rất nhiều người như thế nào. Tôi chưa đọc quyển sách đó, nhưng đọc phần nhận xét của báo chí thì thấy hình như hàm lượng tri thức không cao (1). Đọc qua bài tường thuật một hội thảo cùng chủ đề cũng chỉ thấy những phát biểu chung chung. Vậy chúng ta có lí do gì để tự hào là người Việt Nam? Tôi nghĩ thành thật mà nói, chúng ta không có nhiều lí do. Khi tôi hỏi về câu này, nhiều người có học và suy nghĩ nói thẳng rằng họ không tự hào là người Việt Nam. Ở đây, tôi thử đóng vai một "devil advocate" về đề tài này.

Điều gì làm cho người ta tự hào là thành viên của một cộng đồng dân tộc? Nói đến tự hào dân tộc, có lẽ người Nhật có lòng tự hào cao nhất nhì thế giới. Năm 2008, kết quả điều tra xã hội ở Nhật cho thấy 93% người Nhật tự hào là người Nhật (2), và tỉ lệ này cao hơn Mĩ (85%). Con số này ở Nhật năm 1986 là 91%. Khi được hỏi điều gì làm cho họ tự hào là người Nhật thì 72% trả lời là yếu tố lịch sử, truyền thống và văn hoá, 43% trả lời là phong cảnh thiên nhiên. Ngoài ra, 28% chọn sự ổn định xã hội và an toàn, và 28% khác chọn đặc tính dân tộc làm cho họ tự hào. Người Nhật quá tự hào đến nỗi họ không nhận trợ giúp trong cơn bão Fukushima.

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2014

Phỏng·vấn doanh·nhân Nhật·Bản: "Nhật - Việt: Nét tương·đồng và khác·biệt"



Một doanh nhân, luật gia người Nhật đang làm việc tại Việt Nam nói với BBC rằng người ta nên nhìn nhận điểm khác biệt giữa người Việt với người Nhật hơn là nhấn mạnh "nét tương đồng"

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2014/05/140506_doanh_nhan_nhat_ban_noi_ve_vietnam.shtml

Độc chiêu sếp Nhật trị người Việt hoang phí, gian dối

Anh Phạm Trọng Thức, hiện đang làm việc tại một đại sứ quán nước ngoài ở Hà Nội đã chia sẻ  câu chuyện người thật việc thật từ một công nhân 40 tuổi (KCN Bắc Thăng Long, Hà Nội). Câu chuyện phần nào sẽ cho chúng ta câu trả lời Người Nhật đánh giá thế nào về người Việt Nam.
Muốn biết người Nhật thật sự đánh giá thế nào về Việt Nam thì phải nghe những câu chuyện của những người lao động trực tiếp.

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Thói hư tật xấu của người Việt trong mắt các nhà trí thức nửa đầu thế kỷ 20


  1. Dễ thỏa mãn, tầm nhìn hẹp, không giữ tín, ...
  2. Tha hóa tự nhiên, đáng chê cười
  3. Ăn xổi ở thì, trí tuệ tầm thường
  4. Thủ cựu, ngại thay đổi
  5. Nhiều thói xấu, tin nhảm, giới hạn yêu thương
  6. Thiên về sầu não, kẻ yếu
  7. Cường hào gian giảo, cẩu thả, khó cai trị
  8. Tự giam hãm, kéo bè cánh, kiếm chác
  9. Quan không có chuyên môn, hư hỏng cả hệ
  10. Nặng óc hư danh, Sống không lý tưởng
  11. Ỷ lại, viển vong, tư tưởng gia nô...
  12. Một quan niệm đơn sơ về thế giới
  13. Bệnh thành tích, ỷ lại, thích bắt chước
  14. Huyền hồ, than vãn, học để thi
  15. Lãng phí, mất gốc, học đòi
  16. Thiếu tri thức, học vụ lợi, dễ tầm thường
  17. Thiếu tận tâm, tôn trọng, chờ may rủi
  18. Quen lêu lổng, ăn chơi, cờ bạc
  19. Không thật bụng, không hết lòng
  20. Giỏi diễn trò, đạo đức giả
  21. Tang ma xa xỉ, hủ bại
  22. Học bề ngoài, khách sáo
  23. Ưa nịnh, chê bai, thiếu óc khoa học
  24. Giáo dục, đào tạo nhiều yếu kém
  25. Nhiều mâu thuẫn, phá hoại, thiếu khiêm nhường
  26. Thô tục, vô duyên, luộm thuộm
  27. Nông nổi, hời hợt, tín ngưỡng xen hoài nghi
  28. Dân sợ quan, việc quan hỗn hào lẫn lộn
  29. Bán quẩn buôn quanh, bôi bác giả dối
  30. Giả dối, khao vọng nặng nề
  31. Hủ bại tầm thường, bóc lột thay quản lý
  32. Tầm thường, Phù phiếm, Hiếu danh
  33. Thói tục di truyền, ỷ lại
  34. Cam chịu bất công, thù ghét thay đổi
  35. Học không biết cách, giỏi bắt chước
  36. Không ham phiêu lưu, thêm bớt tùy tiện...
  37. Thật như dối, Hợm hĩnh, Tinh thần voi nan, ...
  38. Học dở, dốt thông, vội vã bắt chước
  39. Thị hiếu tầm thường, Thời gian phí phạm
  40. Tham giàu cho mau, cạnh tranh tầm thường
  41. Dân khí bạc nhược, ra vẻ ái quốc, ...
  42. Học đòi làm dáng, sùng ngoại quá nặng, ...
  43. Sống luôm thuộm, nói thô tục
  44. Tùy tiện giao tiếp, thạo sử người, chẳng học ai cả
  45. Gánh nặng đông dân, lỗi giáo dục, kiêu ngạo hão huyền
  46. Tính toán thiển cận, mê tín gây lãng phí, không chuyên nhất, dễ dãi tiếp nhận
  47. Cần mẫn bất đắc dĩ, không thiết gì, trống rỗng
  48. Không biết học hỏi, bỏ không biết cách, hiếu kỳ, tinh vặt
  49. Một nền văn chương bấp bênh, thiếu tư tưởng, nhu nhược, phô trương
  50. Suy đồi, Nghi ngờ - Hại nhau, Cách chống tiêu cực
  51. Mong yên lành, hóa ra bảo thủ; Không hình thành dư luận sáng suốt
  52. Co mình trong hủ lậu, Văn nặng về đùa giỡn, Lười và hay nói hão
  53. Nhắm mắt bắt chước, ngại thay đổi, đổ tại trời
  54. Khéo tay mà trí không khôn, thiếu tinh thần cầu học
  55. Phù phiếm, sợ mang tiếng, nói liều làm ẩu, mưu danh bằng hạ nhục
  56. Quá viển vông, tầm thường hóa, quá tin sách, tín ngưỡng nông
  57. Hư danh, kém hợp quần, không hiệp tác, hư hỏng
  58. Tầm nhìn hạn hẹp, cam chịu, lẫn lộn, kìm hãm nhau
  59. Gì cũng cười, Nói năng lộn xộn, Học hời hợt
  60. Quan lớn như hạ lưu, Ảo tưởng thoái hóa, trì trệ bất lực
  61. Ai mạnh thì theo; Biếng nhác, vô cảm
  62. Mưu lợi trên dân kém cỏi, Tuỳ tiện trong quản lý
  63. Mê muội hưởng lạc, Lười nhác, ốm yếu, Tệ nạn
  64. Trọng mê tín- xem nhẹ trách nhiệm, ham hội hè, "thần mãn"
  65. Không có can đảm, chưa thoát khỏi tư cách học trò
  66. Ích kỷ, khôn vặt, vụng nói chuyện, học để kiếm gạo, ...


Không lo xa, dễ thỏa mãn
(Lương Dũ Thúc, Báo Nông cổ mín đàm, 1902)

Tôi luận rằng người nước Nam ta khi túng thiếu thì lo lắng thở than , trong lúc đói lo một hồi mà thôi, chớ no không lo nữa.
(…) Người nước của chúng ta, bởi không từng trải ít thấy rộng ít nghe xa (…) hễ vừa mới động nở nòi ra một thí(1) thì là đổi tính đổi nết, làm bề làm thế(2), muốn nghỉ mà ăn chơi. Bới làm sao vậy? Bởi trong trăm người mới có một, thì là trong một xóm ở chừng một trăm, người ấy đã đặng trên mấy bợm(3) khác. Có bạc chục bạc trăm, cho vô cho ra, đã có người thiếu nợ mình rồi, cho nên hết muốn ráng sức nữa. Vì vậy nhiều khi nghèo nàn khổ sở lại… Đến lúc nghèo rồi lại than thở trách trời sinh mình sao mà vận xấu, mới cho khá rồi lại làm cho nghèo, tại trời không thương.
(1) khá giả một tí.
(2) làm dáng, khoe mẽ.
(3) bợm đây không có nghĩa xấu mà chỉ nghĩa bọn khác, kẻ khác.


Tầm nhìn hạn hẹp
(Phan Bội Châu, Việt quốc sử khảo, 1908)
Tục ngữ có câu rằng "cọp chết để da, người chết để tiếng". Xem câu nói đó thời danh vẫn nên quý. Nhưng tội tình thay! Óc ti ti như óc dơi, mắt ti ti như mắt muỗi, ngoài buồng the, bếp núc, vẫn không biết gì là nước non, trừ sọ bò đầu heo, vẫn không biết gì là rồng rắn. Huống chi vết xấu ở gia đình, thói hư ở xã hội, gắn sâu buộc chặt trải mấy nghìn năm, đoàn thanh niên cho đến phường tân tiến(1), đua tranh danh giá, chẳng cu-li thượng đẳng thời nô lệ quá ưu, miệng chưa ráo sữa đã lóc lẻm những thẻ bạc bài ngà, ức(2) chưa rời nôi mà ao ước những mề đay kim khánh. Ôi! Thế là vinh danh hay sao? Qúy hóa hay sao??
(1) đoàn thanh niên đây chỉ thế hệ trẻ, còn phường tân tiến trong xã hội Việt Nam đấu thế kỷ XX là tớp người đi theo xu thế Âu hóa.
(2) ngực.

Không biết giữ chữ tín
(Trần Chánh Chiếu, Lục tỉnh tân văn, 1908)

“Bệnh gian và tham của người Việt không thể chữa được”

Thứ hai 06/05/2013 10:20

(GDVN) - Người Việt có thói xấu lớn nhất là sợ nói ra cái xấu của mình, ai nói ra cái xấu của mình thì coi người đó là kẻ thù và họ vội gạt đi để lấp liếm: “Tôi không như thế”… Chính “hệ miễn dịch” với cái xấu không còn khiến người Việt không thể phát triển được…” - Đó là nhận định của nhà nghiên cứu, phê bình Văn học Vương Trí Nhàn khi mở đầu câu chuyện nói về tính cách, điểm mạnh, điểm yếu của người Việt trong bối cảnh hội nhập thế giới.

Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012

Người Việt: Những Đức Tính Tốt và Xấu

Tác-giả: Đào-Văn-Bình

(San Jose ngày Mùng 4 Tết Kỷ Sửu 2009)

Một dân tộc tự nhận mình có toàn những đức tính tốt, không có đức tính xấu - là một dân tộc sống trong ảo tưởng. Mà một dân tộc sống trong ảo tưởng thì sớm muộn gì cũng suy thoái hoặc bại vong. Có thể nói không có một dân tộc nào trên trái đất này gồm toàn những đức tính tốt. Chẳng hạn người Nhật. Họ có thể có rất nhiều đức tính tốt, nhưng một đức tính xấu không thể phủ nhận đó là người Nhật khó chơi, khó có thể hòa hợp với các chủng tộc khác. Họ sống khép kín chứ không cởi mở như người Việt Nam. Người Do Thái vì quá thông minh cho nên "ăn người", không chịu nhả ra. Chính vì thế mà bị người ta ghét. Ăn thì phải nhả ra, tức phải chia xẻ với người khác thì mới lâu bền. Người Pháp có thể cái gì cũng tốt cả nhưng quá kiểu cách, nặng tự ái cho nên tụt hậu so với Đức, Mỹ, Nhật là những nước trước đây thua kém Pháp. Người Mỹ có thể cái gì cũng tốt cả - nhưng quá phóng túng và không dạy luân lý, đạo đức trong học đường. Có thể đây là nguyên do khiến xã hội Hoa Kỳ từ từ băng hoại và suy sụp. Còn Trung Hoa? Tại sao một đất nước đã sản sinh ra những nhà tư tưởng vĩ đại như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Lão Tử, Trang Tử, Bách Gia Chư Tử... lại có qúa nhiều bạo chúa, đàn bà hung ác, dâm loạn làm suy sụp đất nước và làm khổ con người? Phải chăng người Tàu có một “căn bệnh trầm kha” gì đó mà chúng ta chưa biết?

Còn Việt Nam mình thì sao? Liệu người mình cái gì cũng tốt cả? Vì tự ái dân tộc chúng ta có thể đồng ý như vậy.