Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Văn Tuấn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Văn Tuấn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 12 tháng 2, 2022

Những bài học đời

 Những bài học đời 

          Hình: Overearth/iStock

Tuần qua tôi bắt đầu quay lại campus và nhận được khá nhiều điện thư, điện thoại, thư từ chúc mừng của nhiều nhân vật trong chánh trường mà tôi chưa bao giờ gặp ngoài đời. Phải nói là một tuần tràn trề năng lượng tích cực. Thành ra, nhân dịp cuối tuần tôi viết vài dòng cảm ơn đời và nghĩ về những bài học trong đời, với hi vọng 'mua vui cũng được một vài trống canh.'


Bài học 1: Đừng so sánh với ai, vì mỗi chúng ta là một người đặc biệt và hãy trân trọng sự thật đó. 

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2019

Tình trạng bất định trong sự nghiệp khoa học

Tác-giả: Nguyễn Văn Tuấn

Hôm nọ, tôi biên tập cái EoI cho một em postdoc và sau đó đọc bài viết về chi phí thật sự cho nghiên cứu và công bố khoa học ('The true costs of research and publishing') của Gs Kathryn Rudy (1) tôi thấy ngày nay sự nghiệp khoa học thật là bếp bênh. Thật vậy, người ngoài cuộc có thể không thấy tình trạng bếp bênh đó, vì họ nghĩ giới khoa học rất 'an nhiên'. Cái note này giải thích tại sao đó là một hiểu lầm ...

Ngày nay, chi phí xuất bản khoa học rất cao. Nguồn: https://www.timeshighereducation.com/features/true-costs-research-and-publishing
Thông thường, công chúng nhìn vào giới khoa học, người ta thường hình dung đó là một nhóm người khá lạ thường. Họ có vẻ lập dị, có thể bỏ cả đời để theo đuổi một vấn đề rất nhỏ nào đó chẳng có liên quan gì đến thực tế. Họ cũng viết bài báo, nhưng chẳng ai hiểu họ viết gì vì những từ ngữ có vẻ bí hiểm, cao siêu. Họ nói năng chẳng có cái gì là xác định, còn mặt mũi thì có vẻ đăm chiêu như đang suy nghĩ về một vấn đề nào đó mà người đối diện không rõ. Ngay cả cách họ ăn mặc cũng khác thường, chẳng khác gì thầy cúng sắp làm phận sự. Tóm lại, trong cái nhìn của quần chúng, giới khoa học là những người bất bình thường và có phần ... vô dụng. Vô dụng vì họ lệ thuộc vào tiền thuế của người dân, nhưng người dân thì chẳng hưởng lợi ích bao nhiêu từ họ.

"Nỗi niềm biết tỏ cùng ai"

Nhưng ít ai biết rằng đằng sau những người làm nghiên cứu khoa học là những 'nỗi niềm biết tỏ cùng ai.' Kể ra những nỗi niềm này thì cần đến một cuốn sách và người văn hay chữ tốt. Nhưng ngắn gọn và trên hết là nhà khoa học thường phải đối diện với một tương lai bất định. Hầu hết các nhà khoa học ngoài đại học (tức không hưởng lương từ trường đại học) trên danh nghĩa chỉ tồn tại 1 năm qua hợp đồng, hay nếu may mắn thì 5 năm qua một fellowship rất cạnh tranh. Hôm nay mình còn tồn tại, được mời mọc đây đó, được bay xa và bay cao; còn ngày mai sẽ ra sao rất khó đoán được, vì tất cả phụ thuộc vào nguồn tài trợ. Do đó, tất cả đều không đoán trước được. Cái tương lai bất định và nỗi ám ảnh chông chênh nó đeo đuổi nhà khoa học từ lúc mới bước vào sự nghiệp nghiên cứu cho đến những ngày cuối sự nghiệp, thậm chí cuối đời.

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2019

Làm thế nào để thành công trong khoa học: Lời khuyên của sếp

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn

Hôm nay, sếp cũ của tôi và cũng là của Viện Garvan nói chuyện trong chương trình seminar LiSS (Leaders in Science and Society). Trong nhiều câu chuyện mang tính “reflection”, ông có vài lời khuyên cho những người trẻ làm khoa học mà ông tóm tắt trong slide tôi chụp lại dưới đây.

Sếp tôi là một nhà khoa học loại lừng danh. Ông tên là John Shine, chính xác hơn là Giáo sư John Shine, xuất thân từ một gia đình lao động, nhưng cả hai anh em đều trở thành giáo sư đại học. Ông là một nghiên cứu sinh xuất sắc: trong thời gian học tiến sĩ khám phá ra chuỗi RNA mà sau này được đặt tên là “Shine-Dalgarno sequence”. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ, ông sang UCSF làm nghiên cứu hậu tiến sĩ và có hàng loạt bài trên Nature và Science về những công trình gene cloning. Ông quay về Úc và 'đầu quân' cho Đại học Quốc gia Úc (ANU). Nhưng chỉ một thời gian ngắn, ông lại sang Mĩ và làm CEO cho công ti CalBio do sếp cũ của ông là John Baxter thành lập. Sau đó, Úc chiêu mộ ông về làm viện trưởng Viện Garvan. Ông làm viện trưởng đúng 20 năm (1990 - 2010). Sau khi nghỉ việc ở Garvan, ông được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện hàn lâm khoa học Úc, và Viện có hẳn một building lấy tên ông: Shine Dome. Ông được xem là một trong những 'hoàng tử' của khoa học Úc.

Building mới của Viện Garvan do ông xây dựng vào giữa thập niên 1990s. Đó là một building mà cầu thang được thiết kế theo mô hình double helix. Building rất nổi tiếng và trở thành nơi các diễn viên và tài tử đến đóng phim.
Trong bài nói chuyện mang tính 'hồi tuởng' sáng nay, ông mô tả ngắn gọn về những công trình của ông, nhưng quan trọng hơn là những lời khuyên cho giới trẻ đang theo đuổi sự nghiệp khoa học. Ông tóm tắt thành 5 lời khuyên: tìm người thầy truyền cảm hứng, thực tế, công bằng, hợp tác, và khiêm tốn.

Thứ Ba, 21 tháng 5, 2019

"Nhân tài" theo quan điểm phương Tây

"Nhân tài" theo quan điểm phương Tây

(Tại sao "Nhân tài" khó đóng góp cho VN?)

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn
2019/05/21


Dạo gần đây, nhiều cán bộ cao cấp đương quyền và cựu quyền hay nói đến 'nhân tài', hay có khi mang màu sắc cổ xưa là 'hiền tài'. Thế kỉ 21 rồi mà còn dùng khái niệm 'hiền tài'! Nhưng đều quan trọng là đọc những gì họ viết thì thấy đa phần mang tính khẩu hiệu, chứ bàn về thực chất và những vấn đề gai góc thì không có. Cái note này là một lạm bàn thế nào là 'nhân tài' và tại sao nhân tài khó có thể đóng góp cho VN.

Thứ Sáu, 14 tháng 4, 2017

Khiêm cung trong sự học


Chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng. Hình: source

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn

Nhiều khi tôi thấy hơi "bothered" về sự thiếu khiêm cung trong một số không nhỏ bạn trẻ ngày nay. Có những người [nói theo ông bà ta là] tỏ thái độ "chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng". Mà, trong thế giới khoa học, dù họ có đỗ ông nghè đi nữa thì họ vẫn chưa đủ trình độ để "đe hàng tổng". Trong thế giới khoa học cũng cần một thái độ khiêm cung để thành công về lâu dài.

Thứ Tư, 1 tháng 3, 2017

Một ngày phỏng vấn ứng viên Assistant Professor

Một ngày phỏng vấn
Tác giả: Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn

Thứ Bảy, ngày 4 tháng 2 năm 2017
Hình minh họa. Nguồn: Hahien

Hôm 20/1 tôi tham dự một buổi phỏng vấn mang tính lịch sử: bổ nhiệm các Assistant Professor cho Đại học Tôn Đức Thắng. Đây là một cách làm mới ở VN, và làm hoàn toàn theo mô hình các đại học Mĩ và Úc. Qua phỏng vấn 8 ứng viên, tôi thấy VN mình có nhiều nhân tài, nhưng cái cơ chế hiện hành khó phát hiện họ.

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2016

Đánh giá ảnh hưởng trong nghiên cứu khoa học qua chỉ số H


Vietsciences-Nguyễn Văn Tuấn     11/06/2008


Các cơ quan quản lí khoa học, kể cả đại học và cơ quan tài trợ nghiên cứu khoa học, thường phải đối đầu với một vấn đề tương đối nan giải: đó là đánh giá khách quan thành tựu của một nhà khoa học hay một công trình nghiên cứu. Đứng trước hàng trăm đơn xin tài trợ, hay hàng trăm đơn xin được bổ nhiệm một chức vụ khoa bảng, người quyết định phải dựa vào tiêu chuẩn gì để tuyển chọn một công trình hay một nhà khoa học? Đánh giá thành quả và thành tích của một nhà khoa học thường dựa vào sự đóng góp của nhà khoa học cho cộng đồng khoa học. Hai chữ “đóng góp” bao gồm năng suất làm việc, ảnh hưởng của công trình nghiên cứu đến cộng đồng khoa học quốc tế, và sự ghi nhận của đồng nghiệp trong ngành. Gần đây, chỉ số H (còn gọi là chỉ số Hirsch, hay H index) được đề nghị như là một thước đo về thành quả của một nhà khoa học. Trong bài này, tôi sẽ bàn qua những ưu điểm và khiếm khuyết của chỉ số này.

Số lượng và chất lượng

Đối với những nhà khoa học đã được trao giải Nobel, sự đóng góp và thành tựu của họ trong khoa học rất khó ai chất vấn được. Nhưng đối với 99,9% các nhà khoa học chưa có [hay không nằm trong phạm vi của] giải thưởng cao quí đó, việc đánh giá thành quả của họ là một vấn đề đa chiều kích (multidimension) và phức tạp. Đa chiều kích là vì thành quả khoa học phải được lượng hóa, nhưng cũng không thể bỏ qua chất lượng của các công trình nghiên cứu. Vấn đề trở nên nan giải khi tìm một công thức để quân bình giữa hai yếu tố lượng và phẩm đó. Trong quá khứ, giới quản lí đánh giá thành quả của một nhà khoa học thường chủ yếu dựa vào 3 chỉ số sau đây:

    • Số lượng bài báo khoa học công bố; 
    • Tổng số lần trích dẫn các bài báo; và 
    • Hệ số ảnh hưởng của tập san khoa học. 
Số lượng bài báo công bố trên các tập san quốc tế thường được xem là một thước đo về sự tích cực và năng suất nghiên cứu của một nhà khoa học. Cần nói thêm rằng cụm từ “tập san quốc tế” ở đây là chỉ những tập san khoa học có ban biên tập mà thành phần là các chuyên gia từ nhiều quốc gia, có hệ thống bình duyệt nghiêm chỉnh (peer review system), và được công nhận trong danh sách của Viện thông tin khoa học (Institute of Scientific Information). Theo cách hiểu và các tiêu chuẩn này, phần lớn -- nếu không muốn nói là hầu hết -- các tạp chí khoa học của nước ta chưa được xem là tập san quốc tế. Cũng cần nói thêm rằng “bài báo khoa học” ở đây chỉ tính những bài báo nguyên thủy (original paper) chứ không phải những bản tóm lược (abstract) nghiên cứu hay trình bày trong các hội nghị khoa học. Do đó, một người có nhiều bài báo khoa học công bố trên các tập san quốc tế là một chỉ số khá tốt phản ảnh năng suất lao động của nhà khoa học.

Tuy nhiên, số lượng bài báo chỉ phản ảnh phần lượng, mà có thể không phản ảnh được phần chất. Một nhà nghiên cứu có thể công bố nhiều bài báo khoa học, nhưng chất lượng nghiên cứu có thể không cao. Nhưng lấy gì để đánh giá “chất lượng” nghiên cứu của một nhà khoa học? Đây là một vấn đề gai góc, đã chiếm nhiều thì giờ và giấy mực của nhiều chuyên gia trên thế giới nhưng cho đến nay vẫn chưa có thước đo hoàn chỉnh. Trong khi chưa có một thước đo hoàn chỉnh, giới quản lí thường dựa vào uy tín hay độ ảnh hưởng của tập san mà họ từng công bố. Uy tín của một tập san thường được đo bằng hệ số ảnh hưởng (còn gọi là impact factor hay IF). Hệ số ảnh hưởng IF của một tập san khoa học là số lần trích dẫn trung bình trong năm cho các bài báo công bố trên tập san đó trong vòng 2 năm trước. Chẳng hạn như trong 2 năm 2003 và 2004 tập san y khoa Lancet công bố 450 bài báo khoa học, và trong năm 2005 có 10.500 bài báo khác trích dẫn 450 bài báo đó, thì hệ số IF = 10.500 / 450 = 23,3.

Các tập san thuộc bộ môn khoa học thực nghiệm như y sinh học và vật lí thường có hệ số IF cao hơn các tập san thuộc ngành toán học hay khoa học xã hội, nhưng điều này không có nghĩa là tập san các ngành đó có chất lượng thấp. Điều này có nghĩa là khi so sánh IF, người ta phải so sánh trong cùng ngành khoa học. Nói chung, ở mỗi chuyên ngành, tập san nào có chất lượng cao hay uy tín cao thường có hệ số IF cao. Do đó, dựa vào IF của tập san, người ta có thể đánh giá chất lượng nghiên cứu của nhà khoa học. Nhưng xin nhấn mạnh là “có thể”, bởi vì IF phản ảnh chất lượng của tập san chứ không hẳn bài báo khoa học trên tập san đó. Trong thực tế, có nhiều bài báo được công bố trên các tập san có IF thấp nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến chuyên ngành.

Bởi vì IF phản ảnh chất lượng của tập san, giới quản lí phải đi tìm một chỉ số khác phản ảnh chất lượng nghiên cứu của cá nhân nhà khoa học. Một trong những chỉ số hấp dẫn là chỉ số trích dẫn (average citation) của cá nhân nhà khoa học. Chỉ số trích dẫn được tính bằng cách lấy tổng số lần trích dẫn chia cho số lượng bài báo khoa học của một tác giả. Chẳng hạn như tác giả VĐT công bố 116 bài báo khoa học, và các bài báo này đã được trích dẫn 1434 lần (kể cả tác giả tự trích dẫn), do đó, chỉ số trích dẫn là 1434 / 116 = 12,3. Nói cách khác, tính trung bình số lần trích dẫn cho mỗi công trình khoa học của tác giả này là 12,3 lần.

Việc diễn giải chỉ số trích dẫn cũng đôi khi gặp khó khăn. Theo phân tích của ISI, trong tất cả các bài báo khoa học công bố trên thế giới, có khoảng 55% các bài không bao giờ được ai (kể cả chính tác giả) trích dẫn sau 5 năm công bố ! Trong các ngành như kĩ thuật tần số không trích dẫn lên đến 70%. Ngay cả được trích dẫn và tham khảo, con số cũng rất khiêm tốn : chỉ có trên dưới 1% bài báo khoa học được trích dẫn hơn 6 lần mà thôi (trong vòng 5 năm). Do đó, có người đề nghị là một bài báo được trích dẫn một cách độc lập (tức không phải chính tác giả tự trích dẫn) hơn 5 lần được xem là "có ảnh hưởng". Những công trình có ảnh hưởng lớn thường có số lần trích dẫn 100 lần trở lên.

Tuy nhiên, các chỉ số dựa vào số lần trích dẫn như IF hay chỉ số trích dẫn cũng có khiếm khuyết quan trọng. Lí do đơn giản là vì có khi nhà khoa học có một vài bài báo được trích dẫn nhiều lần, nhưng đa số còn lại chẳng ai trích dẫn, thì chỉ số trích dẫn không phản ảnh được chính xác tình trạng này.

Chỉ số H
Trong nỗ lực đi tìm một chỉ số tốt hơn, năm 2005, nhà vật lí học Jorge Hirsch (Đại học California San Diego) tiến hành một phân tích khá qui mô về xu hướng công bố bài báo khoa học và trích dẫn, và sau cùng ông đề nghị một chỉ số mà ông lấy tên là H index (H có lẽ là viết tắt họ của ông). Chỉ số H được tính toán dựa vào số công trình công bố và số lần trích dẫn. Mục tiêu của chỉ số H là đo lường mức độ ảnh hưởng tích lũy của một nhà khoa học. Chỉ số H được định nghĩa như sau:Chỉ số H của một nhà khoa học là H công trình trong số N công trình của nhà khoa học đó được trích dẫn ít nhất là H lần, và (N – H) được trích dẫn dưới H lần. Ví dụ, nếu một nhà khoa học có chỉ số H = 20 có nghĩa là nhà khoa học này có 20 công trình nghiên cứu với mỗi công trình được trích dẫn ít nhất là 20 lần.

Nhìn qua định nghĩa trên của chỉ số H, dễ dàng thấy rằng đây là một chỉ số phản ảnh thành quả tích lũy của một nhà khoa học. Chỉ số H không có những khiếm khuyết mà các chỉ số khác gặp phải. Chẳng hạn như một nhà nghiên cứu có thể công bố hàng trăm ấn phẩm khoa học, nhưng trong số này chỉ có một số ít được trích dẫn thì chỉ số H vẫn không cao. Có thể nói rằng cái lợi thế lớn nhất của chỉ số H là nó chẳng những bao gồm hai yếu tố lượng và phẩm, mà còn quân bình hóa hai yếu tố này khá tốt.

Chỉ số H xem ra có tính hợp lí (validity). Hirsch chịu khó phân tích các nhà khoa học y sinh học, vật lí học, hóa học từng chiếm giải Nobel thì thấy 84% có chỉ số H trên 30. Những người được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học Mĩ có chỉ số H trung bình là 45. Khi so sánh những nghiên cứu sinh thành công xin học bổng hậu tiến sĩ (postdoctoral fellowship) và những người không thành công, thì chỉ số H của người thành công lúc nào cũng cao hơn người không thành công. Phân tích trên 147 nhà khoa học ở Hà Lan cho thấy hệ số tương quan giữa chỉ số H và uy tín cũng như số lần trích dẫn lên đến 0,89. Tất cả các dẫn chứng này cho thấy chỉ số H phản ảnh tốt chất lượng nghiên cứu và ảnh hưởng của nhà khoa học.

Diễn giải chỉ số H như thế nào? 


Vấn đề kế đến là diễn giải chỉ số H như thế nào? Trong bài báo trên PNAS [1], Hirsch viết rằng [tôi tạm dịch] một nhà khoa học với chỉ số H = 12 nên được xem là đủ tiêu chuẩn để vào biên chế đại học (tenure). Một nhà khoa học với H = 20 sau 20 năm làm khoa học có thể xem là một nhà khoa học thành công (successful); một chỉ số H = 40 sau 20 năm làm khoa học được xem là xuất sắc (outstanding) thường hay thấy ở các đại học hàng đầu hay viện nghiên cứu đẳng cấp quốc tế; một chỉ số H = 60 sau 20 năm làm nghiên cứu được xem là thật sự cá biệt (truly unique) [2]. Hirsch còn đề nghị rằng người có chỉ số H khoảng 12 có thể xem tương đương với giảng viên (lecturer hay senior lecturer), và người có H khoảng 18 trở lên có thể xem tương đương với đẳng cấp giáo sư. Phân tích chỉ số H của các nhà khoa học từng chiếm giải Nobel cho thấy chỉ số H trung bình của họ là 41 với độ lệch chuẩn 15. Một số nhà khoa học nổi tiếng hiện nay thường có chỉ số H trên 100. Tuy nhiên, chỉ số H của các nhà khoa học Việt Nam -- trong cũng như ngoài nước -- nói chung là còn rất khiêm tốn, chỉ dao động trong khoảng 2 đến 31, phần lớn là dưới 10.


Chỉ số H của một số nhà khoa học nổi tiếng 


Vật lí Ed Witten (Princeton) : 110
Martin Cohen (Berkeley) : 94
Philip Anderson (Princeton) : 91
Manuel Cardona (Max Planck) : 86
Frank Wilczek (MIT) : 68

Hóa học
George Whitesides (Harvard) : 135
Elias James Corey (Harvard) : 132
Martin Karplus (Harvard) : 129
Alan Heeger (California) : 114
Kurt Wurthrich (Switzerland) : 113

Khoa học máy tính 
Hector Garcia Molina (Stanford) : 70
Deborah Estrin (UCLA) : 68
Ian Foster (Illinois) : 67
Scott Shenker (Berkeley) : 65
Don Towsley (Massachusetts) : 65
Jeffrey Ullman (Stanford) : 65

Ngay từ khi chỉ số H ra đời, có nhiều người tán thành và lấy đó làm thước đo thành tựu và ảnh hưởng của một nhà khoa học. Ngày nay, các tập san khoa học danh tiếng như Nature, Science, Cell, PNAS, v.v… và các cơ quan quản lí khoa học ở Âu châu, Mĩ châu, Úc châu đều sử dụng chỉ số H để làm cơ sở cho đề bạt, cấp tài trợ, và đánh giá thành công của một nhà khoa học hay một nhóm nghiên cứu. Ngay cả Viện thông tin khoa học (ISI Thomson) cũng sử dụng chỉ số H trong báo cáo của họ [3].

Chuẩn hóa chỉ số H

Nhưng chỉ số H vẫn chưa hoàn hảo. Trong những khiếm khuyết mà giới khoa học chỉ ra trong thời gian qua, có 3 khiếm khuyết lớn như sau:
  • Thứ nhất, chỉ số H luôn luôn tăng theo thời gian, và do đó tùy thuộc vào độ tuổi của nhà nghiên cứu và thời gian làm nghiên cứu. Chẳng hạn như chỉ số H của một người đã làm nghiên cứu 35 năm có xu hướng cao hơn người có thời gian làm khoa học ngắn hơn. 
  • Thứ hai, chỉ số H không phân biệt được những nhà khoa học đã nghỉ hưu với những nhà khoa học đang làm việc. Chẳng hạn như nếu Albert Einstein chết vào năm 1906 thì chỉ số H của ông chỉ 4 hay 5, nhưng ai cũng biết công trình của ông có ảnh hưởng rất lớn đến khoa học. 
  • Thứ ba, chỉ số H còn tùy thuộc vào ngành khoa học. Nói chung, các ngành khoa học tự nhiên và thực nghiệm (như vật lí, y sinh học) có xu hướng công bố nhiều công trình nghiên cứu và thường hay trích dẫn nhau hơn các ngành khoa học như toán học hay xã hội học.
Để khắc phục các khiếm khuyết trên, một vài chỉ số khác đã được đề xuất để “điều chỉnh” chỉ số H. Để điều chỉnh cho thời gian làm nghiên cứu, Hirsch đề nghị chia chỉ số H cho thời gian làm nghiên cứu và ông gọi chỉ số này là Chỉ số m. Chẳng hạn như một người làm khoa học 35 năm với chỉ số H = 61 thì chỉ số m là 61 / 35 = 1,74.

Nhưng khiếm khuyết thứ ba là đáng quan tâm nhất. Chúng ta biết rằng các bộ môn khoa học có những văn hóa ngành khác nhau. Chẳng hạn như các ngành khoa học thực nghiệm thường có truyền thống trích dẫn cao hơn so với các ngành khoa học tự nhiên như toán học. Do đó, rất khó mà so sánh chỉ số H của một nhà vật lí học với một nhà toán học, nếu không có một cái gì đó để điều chỉnh. "Cái gì đó" chính là hệ số mà hai nhà nghiên cứu Tây Ban Nha đã phát triển [4]. Theo hai nhà nghiên cứu này, lấy ngành vật lí làm chuẩn, có thể tìm những hệ số điều chỉnh bằng cách xem xét xu hướng trích dẫn và chỉ số H của các nhà khoa học trong các bộ môn khoa học khác nhau. Qua những phân tích công phu và khá phức tạp, họ đề ra những hệ số chuẩn hóa như sau (xem Bảng 1).

Cách sử dụng hệ số này rất đơn giản. Chẳng hạn như nhà vật lí Ed Witten có chỉ số H = 110 và nhà hóa học Kurt Wurthrich có chỉ số H = 113, có thể nói rằng nhà hóa học này có thành tựu khoa học cao hơn nhà vật lí ? Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta phải chuẩn hóa chỉ số H. Tra bảng 1 thấy hệ số điều chỉnh cho ngành hóa học là 0,92, và do đó chỉ số H của nhà hóa học này là : 113 × 0,92 = 103,6. Như vậy, sau khi điều chỉnh, nhà hóa học có lẽ có thành tựu khoa học kém hơn nhà vật lí.

Ngoài ra, còn có chỉ số khác như chỉ số g (g index), chỉ số H đương đại (contemporary H index), chỉ số H cá nhân (individual H index). Có thể tham khảo thêm các chỉ số này trong trang nhà của giáo sư Harzing. Tuy nhiên, khi so sánh các chỉ số mới này với chỉ số H, ngoài vài trường hợp cá biệt, không có gì khác nhau đáng kể. Do đó, cho đến nay giới quản lí khoa học vẫn sử dụng chỉ số H hay chỉ số H chuẩn hóa để đánh giá chất lượng và thành tựu của một nhà nghiên cứu khoa học. Chỉ số H còn có thể thay thế hệ số IF để đánh giá uy tín và chất lượng của một tập san khoa học [5] (xem Bảng 2).

Nói tóm lại, chỉ số H là một thước đo thành quả khoa học khách quan nhất so với các chỉ số hiện nay. Tuy chỉ số H vẫn còn vài khiếm khuyết, nhưng với sự chuẩn hóa (lấy ngành vật lí làm chuẩn), các cơ quan quản lí khoa học có một phương tiện, một thước đo có ích để phục vụ cho việc cung cấp tài trợ và đề bạt các nhà khoa học xứng đáng. Ứng dụng chỉ số H cũng là một cách đưa hoạt động khoa học nước ta từng bước hội nhập quốc tế.

Chú thích:

[1] Hirsch, J. E. (2005). "An index to quantify an individual's scientific research output," Proceedings of the National Academy of Sciences, 102(46):16569-16572, November 15, 2005 (có thể tải về miễn phí tại arXiv).

[2] Trong bài báo [1] Hirsch viết như sau: “From inspection of the citation records of many physicists, I conclude the following:

A value of m ≈ 1 (i.e., an H index of 20 after 20 years of scientific activity), characterizes a successful scientist.

A value of m ≈ 2 (i.e., an H index of 40 after 20 years of scientific activity), characterizes outstanding scientists, likely to be found only at the top universities or major research laboratories.

A value of m ≈ 3 or higher (i.e., an H index of 60 after 20 years, or 90 after 30 years), characterizes truly unique individuals.”

[3] Có thể sừ dụng ISI để tìm chỉ số H của bất cứ nhà khoa học nào, qua các bước sau đây: Truy cập trang ISI Web of Knowledge (www.isiknowledge.com), tìm “Web of Science”, chọn Advanced Search. Trong box này, gõ tiêu chuẩn tìm như tên nhà khoa học và địa chỉ hay quốc gia. Chẳng hạn như để tìm tác giả Sutherland RL ở viện Garvan thuộc, chúng ta gõ AU=Sutherland RL AND AD=Garvan AND CU=Australia. Sau đó ISI sẽ cho ra một danh sách tất cả các bài báo khoa học. Chọn “Citation Report” sẽ có chỉ số H và một số chỉ số khác của nhà khoa học.

[4] Iglesias JE, Pecharromen C. Scaling the h-index for different scientific ISI fields. Scientometrics 2007;3:303. Có thể tải bài này về từ website sau đây: http://arxiv.org/abs/physics/0607224.

[5] Braun T, Glanzel W, Schubert A. A Hirsch-type index for journals. The Scientist Nov 21, 2005; 22.

[5] Philip Ball. Achievement index climbs the ranks. Nature 448, 737 (16 August 2007) và phản hồi: Michael C. Wendl. H-index: however ranked, citations need context. Nature 449, 403 (27 September 2007). Philip Ball. "Index aims for fair ranking of scientists". Nature 436 (August 2005), và Wikipedia.



Bảng 1. Hệ số điểu chỉnh cho chỉ số H

Bảng 2. Chỉ số H của một số tập san khoa học hàng đầu




            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Nguyễn Văn Tuấn

Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2016

Người Tàu là tổ tiên của người Việt?

               Hình: livescience.com

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn
2015-10-25
 
"Một nghiên cứu mới nhất và qui mô lớn nhất công bố trên Science cho thấy người Đông Nam Á chính là tổ tiên của người Đông Á, kể cả người Tàu"

Tôi nghĩ nhiều người Việt nghĩ như thế: tổ tiên chúng ta (người Việt) là người Tàu. Họ không hẳn là thuộc nhóm "thân Tàu" hay Lê Chiêu Thống hiện đại đâu, mà có thể là những người có tinh thần dân tộc tốt và có học thức khá. Nhưng chứng cứ khoa học mới nhất cho thấy ngược lại: Người Tàu có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Có thể nhiều bạn cảm thấy sốc với phát biểu đó, nhưng đó chính là bằng chứng về di truyền học chứ không phải của cá nhân tôi. Xin nhắc lại để nhấn mạnh: Người Đông Nam Á là tổ tiên của người Tàu.

Thứ Tư, 10 tháng 2, 2016

Tổ tiên người Việt là người Trung Hoa?

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn
20/4/2010

Sau entry hôm qua bàn về cô Đỗ Ngọc Bích, người mà BBCVietnamese giới thiệu là tiến sĩ và đang là giảng viên của Đại học Yale, nhưng tôi có viết rằng không tìm thấy tên cô Bích trong website Đại học Yale. một người bạn bên Mĩ có gửi email cho tôi với lời đính chính của Gs Erik Harms như sau:

"From: Erik Harms
Sent: Monday, April 19, 2010 2:02 PM
Subject: Important Correction to Article

Xin Chào,

Tôi tên là Erik Harms, hiện là Assistant Professor of Anthropology (Phó Giáo sư, khoa nhân học) tại Đại học Yale.

Tôi rất ngạc nhiên khi đọc bài ý kiến (opinion piece) của Nghiên cứu sinh Đỗ Ngọc Bích trên mạng BBC. Tôi ngạc nhiên bởi vì BBC đã cho các độc giả nghĩ phải là cô Bích là Tiến sĩ đang dạy tại ĐH Yale. Thông tin này hoàn toàn sai. Cô Bích hiện là sinh viên cao học tại Đại học Hawaii, đang học (nhưng chưa có bằng) tiến sĩ trong khoa Hoa Kỳ Học (American Studies). Tôi xin BBC tiếng Việt điều chỉnh lại thông tin này.

Cô Bích đang sống ở New Haven, nhưng cô ấy không làm việc cho Yale. Mọi người đều có phép phát biểu ý kiến cá nhân của mình, và tôi sẽ không bao giờ "điều chỉnh" nội dung của bài cá nhân của cô Bích. Nhưng, tôi cũng nghĩ là độc giả phải biết bài ấy là một ý kiến cá nhân của cô ấy, và không đại diện ý kiến của trung tâm Đông Nam Á học tại Yale.

Xin cám ơn

Erik Harms"
Chú ý là email viết tiếng Việt không dấu, nên tôi đánh dấu để dễ đọc.

Như vậy những gì tôi viết hôm qua là đúng: cô Bích không phải là người của Yale và cũng chưa bao giờ giảng dạy tại Yale. BBCVietnamese bị lường gạt rồi chăng?

NVT

===

Entry 19/4/2010

Mấy hôm nay dư luận có vẻ xôn xao về một bài báo của một người có tên là Đỗ Ngọc Bích viết về chủ nghĩa dân tộc Việt Nam mà cô dùng những từ tương đối trịch thượng và mỉa mai như “mù quáng”, “bài xích”, “rên rỉ”. Lập luận của cô ĐNB có thể gói gọn trong giả định quan trọng này: “Người dân Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc, Vua của Việt Nam cũng khởi tổ từ người Trung Quốc, coi vua Trung Quốc như anh như cha… từ Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, hay Lý Công Uẩn, rồi các gia tộc họ Trần, Lê, Nguyễn, v.v…”, rồi đi từ giả định đó, cô cho rằng những phản ứng của người Việt trước hành động xâm lấn và giết hại người Việt là cực đoan, là mù quáng, gây tác hại hơn là đem lại lợi ích. Có lẽ cái thông điệp ngầm mà cô muốn nói cho người Việt là nên buông tay, quay về với tổ tiên Trung Hoa, và trở thành một huyện hay gì đó của Trung Quốc. Tôi biết cô chưa viết ra điều này, nhưng cái thông điệp đó bàng bạc trong bài viết.

Vậy thì chúng ta phải xem xét giả định của cô Bích có đúng không.

Nhân đọc “Eden in the East”: Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn
 
Hỏi một người Việt bình thường về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, câu trả lời mà người ta thường nghe là tổ tiên của chúng ta xuất phát từ Trung Quốc.  Ngay cả người có kiến thức rộng, có quan tâm đến dân tộc và văn hóa Việt cũng có những ý kiến tương tự.  Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn hóa Sử cương;  và Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược, cũng từng cho rằng người Việt có nguồn gốc hoặc từ Trung Quốc [1] hay từ Tây Tạng [2], dù họ có chút dè dặt và thận trọng trong phát biểu.  Gần đây, một người làm chính trị nhưng có quan tâm đến văn hóa Việt Nam, Nguyễn Gia Kiểng, trong Tổ quốc ăn năn, cũng cho rằng nước Văn Lang xưa kia là do người Trung Quốc sáng lập [3] ra. 

Northern Affairs (Vụ áp·phe miền Bắc)

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn

Tôi nghĩ cái dư âm còn lại sau kết quả bầu bán trong đại hội vừa qua có vẻ là vấn đề mất cân đối vùng miền trong phân bố nhân sự chóp bu. Đọc bài trên BBC dưới đây (1) mới biết là trước đó đã có người trong nội bộ nêu vấn đề. Một bài luận trên Người Việt (2) cũng tỏ ra quan ngại cho tình trạng này, và nhà bình luận nói, sự mất cân đối đó chỉ làm lợi cho Tàu.

Thật ra, không chỉ trong chính trị, mà trong khoa học và giáo dục cũng xảy ra tình trạng mất cân bằng nghiêm trọng giữa ba miền. Tôi thử đếm con số giáo sư được phong năm 2014 và 2015 thì thấy đa số ứng viên được phong là người từ miền Bắc. Chẳng hạn như năm 2015, có 52 người được phong hàm giáo sư; trong số này, 41 (hay 79%) là người từ các trường viện miền Bắc. Năm 2014, con số này là 73%. Phân bố cụ thể số giáo sư được phong như sau:

Người Bắc hám danh, người Nam ham học?

Tác·giả: Nguyễn Văn Tuấn
 

Hám danh và ham học

Tôi thấy khi bàn về sự mất cân đối trong phân bố các phẩm hàm giáo sư và tài trợ khoa học (xem bài trước: Northern Affairs (Vụ áp·phe miền Bắc)), có vài ý kiến cho rằng vì người Bắc ham học, nên ngoài đó có nhiều giáo sư là điều dễ hiểu. Đó là một ý kiến thú vị. Nhưng tôi nghĩ cần phải phân biệt giữa hám danh và ham học.

Hám danh dĩ nhiên có nghĩa là muốn có danh vọng bằng mọi giá và trong mọi tình huống. Họ là những người đi đâu cũng kè kè theo những danh xưng trước tên. Chẳng những thế, họ còn bắt buộc người khác phải xưng hô với họ bằng những danh xưng. Họ là những người bằng mọi cách và mọi giá để có phẩm hàm, kể cả mua. Ngày xưa Nguyễn Công Trứ từng nói “Làm trai đứng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông”, và cái câu đó gần như là kim chỉ nam cho người Việt, đặc biệt là người ngoài Bắc.

Thứ Tư, 8 tháng 7, 2015

Ngụy biện con gái miền Tây lười biếng, thất học, và dễ bị dụ dỗ

Nguyễn Văn Tuấn - Đọc “vì sao gái miền Tây làm nghề nhạy cảm?” 

Ảnh chỉ có tính chất minh họa.
Thoạt đầu tôi không để ý đến bài báo "Vì sao gái miền Tây hay làm nghề nhạy cảm?" (nguyên văn bài báo bạn đọc có thể đọc ở cuối bài viết này), nhưng thấy phóng viên Lê Ngọc Sơn đưa vào Facebook và thấy các bạn bàn luận tôi mới đọc qua cho biết. Đọc xong tôi thấy đây là một bài báo có rất nhiều điểm đáng bàn. Đáng bàn không phải vì sự thật (đúng ra là tính hư cấu) trong bài báo, mà là khả năng nhận thức của người viết bài báo. Có nhiều câu chữ mang hơi hám khoa học nhưng thật ra là phi khoa học. Đáng lẽ toàn bộ bài viết phải gọi là “ngụy khoa học” thì đúng hơn. Tính nguỵ khoa học (pseudoscience) trong bài này nó bàng bạc trong các thói nguỵ biện phổ biến.

Cái nguỵ biện thứ nhất là nói bâng quơ. Chẳng hạn như câu “con gái miền Tây đi làm những nghề nhạy cảm như massage, tiếp viên… nhiều hơn những con gái miền khác. Thật ra, tôi cũng có thể nói khơi khơi thế này: “con gái miền Tây đi làm công nhân trong mấy hãng xưởng ở Bình Dương và Long An nhiều hơn con gái miền khác”. Tôi nói thế là vì tôi hay đi đến những hãng xưởng đó và có cảm nhận như thế. Còn những người hay đi uống bia ôm và massage thì thấy gặp con gái miền Tây nhiều, nên có cảm nhận như thế. Nó cũng chẳng khác gì người ta thấy nhiều người mắc bệnh tả có thói quen ăn thịt chó, thế là người ta nghi rằng thịt chó là nguyên nhân bệnh tả. Nhưng câu hỏi quan trọng hơn là so sánh giữa bao nhiêu người ăn thịt chó mắc bệnh tả, và bao nhiêu người không ăn thịt chó mắc bệnh tả. Bài học thứ nhất ở đây là: nói một chiều và không có nhóm chứng (control) là phạm phải lỗi nguỵ biện.

Tại sao khó có thể tự hào là người Việt Nam?

Tác·giả: Nguyễn·Văn·Tuấn
2014-09-29
Photo from danlambao
Đề tài này có thể rất tế nhị. Nếu là người Việt mà nói "tôi không tự hào là người Việt" thì chắc chắn sẽ bị "ném đá" như Hồi giáo ném đá những người ngoại tình. Một cuốn sách có tựa đề là "Tôi tự hào là người Việt Nam" mới xuất bản và đã bán hết 10000 cuốn đủ để nói đề tài này làm ấm lòng rất nhiều người như thế nào. Tôi chưa đọc quyển sách đó, nhưng đọc phần nhận xét của báo chí thì thấy hình như hàm lượng tri thức không cao (1). Đọc qua bài tường thuật một hội thảo cùng chủ đề cũng chỉ thấy những phát biểu chung chung. Vậy chúng ta có lí do gì để tự hào là người Việt Nam? Tôi nghĩ thành thật mà nói, chúng ta không có nhiều lí do. Khi tôi hỏi về câu này, nhiều người có học và suy nghĩ nói thẳng rằng họ không tự hào là người Việt Nam. Ở đây, tôi thử đóng vai một "devil advocate" về đề tài này.

Điều gì làm cho người ta tự hào là thành viên của một cộng đồng dân tộc? Nói đến tự hào dân tộc, có lẽ người Nhật có lòng tự hào cao nhất nhì thế giới. Năm 2008, kết quả điều tra xã hội ở Nhật cho thấy 93% người Nhật tự hào là người Nhật (2), và tỉ lệ này cao hơn Mĩ (85%). Con số này ở Nhật năm 1986 là 91%. Khi được hỏi điều gì làm cho họ tự hào là người Nhật thì 72% trả lời là yếu tố lịch sử, truyền thống và văn hoá, 43% trả lời là phong cảnh thiên nhiên. Ngoài ra, 28% chọn sự ổn định xã hội và an toàn, và 28% khác chọn đặc tính dân tộc làm cho họ tự hào. Người Nhật quá tự hào đến nỗi họ không nhận trợ giúp trong cơn bão Fukushima.

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2015

Một số nét về đời tư và sức khỏe của Karl Marx

Tác·giả: Nguyễn Văn Tuấn
2015-05-12
Karl Marx. Ảnh: wikipedia

Nhân dịp tìm một bài viết cũ tôi gặp bài này. Bài này định gửi cho báo VN nhưng chẳng tờ nào dám đăng. Bài viết về sức khoẻ K Marx. Thôi thì tôi chia sẻ cùng các bạn cho vui.

Karl Marx là một trong những triết gia có ảnh hưởng lớn nhất đến thế giới trong thế kỉ 20 này. Tư tưởng của Marx đã từng được hàng trăm triệu người ngưỡng mộ, thậm chí được dùng làm nền tảng chính trị và kinh tế cho nhiều quốc gia trên thế giới, để chia thế giới thành hai phe phái dựa trên ý thức hệ. Cho đến nay, dù “Chiến tranh lạnh” đã chấm dứt, nhưng tư tưởng của Marx vẫn còn được nhiều người trân trọng. Học thuyết của Marx vẫn còn được nghiên cứu trong các đại học. Nói tóm lại, ảnh hưởng của Marx vẫn còn hiện diện trên thế giới.

Đối với người Việt chúng ta, cái tên “Karl Marx” không còn xa lạ. Tuy nhiên, người ta biết nhiều đến Karl Marx như là cha đẻ của học thuyết cộng sản và tác giả của quyển chính trị luận nổi tiếng, Das Kapital (tạm dịch là “Tư bản luận”), rất ít người biết được đời sống riêng tư và đặc biệt là sức khỏe của ông ra sao. Do một cơ duyên tình cờ, người viết bài này có dịp đọc một số tài liệu khảo cứu của một nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Trường Đại học RMIT (Úc). Qua các tài liệu này, tôi cảm thấy bị thu hút vào các tài liệu liên quan đến vấn đề sức khoẻ của Marx mà cô nghiên cứu sinh đã thu thập được trong quá trình viết luận án. Bài viết này chỉ nhằm tóm lược những tài liệu về sức khỏe của Marx với hi vọng sẽ đem lại cho độc giả một vài thông tin gần gũi hơn về con người lớn này.

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2015

Đánh giá ứng viên trong học thuật

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn
2015-04-22
 
Trời! Sáng ra vào Facebook thì thấy quá nhiều comments và khen. Trong tất cả các note tôi viết và chia xẻ trên Facebook từ trước đến nay, có lẽ cái note ngày hôm qua được nhiều bạn chào đón nhất. Rất cám ơn các bạn đã cho ý kiến về một trường hợp tôi nghĩ rất là thật sự xuất sắc. Tôi thông cảm cho một vài bạn tỏ ra nghi ngờ về thành tích khoa học của em này quá siêu. Nhưng ở đâu thì tôi không rõ, chứ ở Úc, nơi các em lớn lên trong môi trường mà sự thành thật tri thức được đặt lên hàng đầu, tôi ít khi nào đặt chuyện thật hay giả dối thành vấn đề. Tôi có con lớn lên ở đây và biết chúng được huấn luyện trong nhà trường như thế nào, không giống như vài trẻ em ở VN, trẻ con ở đây xem nói dối là một trọng tội. Vả lại, em này đã từng làm tại những nơi mà tôi đều biết, nên không có chuyện gian dối ở đây. Có bạn hỏi kinh nghiệm của tôi trong việc đánh giá một ứng viên như thế nào. Đây là câu hỏi có khi quan trọng, nên nhân dịp này tôi muốn chia sẻ vài kinh nghiệm rất cá nhân …
 
Cũng như bao nhiêu người khác, tôi từng được/bị người khác phỏng vấn cho những vị trí và fellowship. Tôi cũng từng ở vị trí phỏng vấn người khác cũng cho những vị trí như giáo sư, fellow. Ngoài ra, tôi còn có dịp ngồi trong các hội đồng khoa bảng để mướn người. Nói vậy không có nghĩa là “nổ” hay “khoe khoang” gì (vì ai ở vị trí như tôi đều là như thế cả), nhưng để nói rằng qua những trải nghiệm như thế tôi có thể rút ra được một số kinh nghiệm trong việc đánh giá ứng viên.
 
Nếu viết ra một danh sách dài những tiêu chuẩn và tiêu chí để đánh giá thì tôi không có thì giờ, và cũng không thể nào am hiểu hết các chuyên ngành. Mỗi chuyên ngành có một văn hoá bộ lạc riêng. Do đó, tôi chỉ nói bên ngành y thôi. Thêm nữa, khi đánh giá một ứng viên, những tiêu chuẩn và tiêu chí còn tuỳ thuộc vào vị trí. Điều này thì đương nhiên, vì đâu có ai dùng tiêu chuẩn dành cho một phó giáo sư để đánh giá một ứng viên nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ được. Tương tự, cũng không thể lấy tiêu chuẩn của một đại học làng nhàng nào đó để đánh giá cho một đại học thuộc đẳng cấp “elite”.

Siêu sao sinh viên

Sinh viên đại học mà trong 3 năm có 56 bài báo khoa học trong đó 30 bài là tác giả đứng đầu. Báo top thế giới chứ không phải hạng xoàng. Đúng là siêu nhân.
 
Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn
2015-04-21
 
Hôm nay tôi mới tiếp xúc với một em sinh viên năm thứ 3 trường y, và tôi chỉ có một chữ để nói về em: siêu sao. Trên thế giới này rất hiếm thấy một sinh viên như em, với một thành tích học tập và nghiên cứu chỉ có thể mô tả là trên cả tuyệt vời. Điều quan trọng để nói: em là người Việt Nam, con của một gia đình tị nạn thuộc giai cấp lao động.
 
Thoạt đầu, em ấy liên lạc tôi để "đầu quân" vào lab, nhưng đọc dòng đầu của email là tôi nản, suýt nữa bỏ qua. Em giới thiệu em là sinh viên trường y, còn 3 năm nữa tốt nghiệp, nhưng em có "some experience in research". Gần như hàng tháng tôi nhận nhiều email loại này, nhưng phần lớn là các em ấy đã tốt nghiệp trường y hay PhD, và xin postdoc, mà cũng rất khó nhận vì CV yếu quá. Có em có đến 20 bài báo, nhưng nhìn kĩ thì toàn là làm với người khác, chỉ có vài bài là tác giả chính, nên không thể nào nhận được. Thành ra, với "thành kiến" đó, đọc dòng đầu email của em này, tôi đã nghĩ thầm trong bụng: rồi, thêm một cậu muốn mơ làm chuyện lớn, loại này chỉ tổ làm mình mất thì giờ chứ học với hành gì. Nhưng có lẽ vì văn phong rất khá, nên tôi có cảm hứng đọc tiếp. Đọc xong, tải cái CV về và in ra đọc tiếp, tôi mới ngã ngửa: Ôi, đây là một siêu sao rồi.
 
Nói là "em", chứ em này chỉ đáng tuổi con cháu tôi thôi. Em tốt nghiệp trung học từ trường danh giá là James Ruse, với số điểm gần như tuyệt đối: 99.95 trên 100. Trong thời gian học, em được bầu là Dux, tức là giống như lớp trưởng (nhưng không phải như lớp trưởng ở VN chủ yếu là cán bộ đoàn), có lẽ do học giỏi và có năng khiếu lãnh đạo. Năm nào em cũng được xếp hạng 3 hoặc 4 về hoá học toàn quốc. Danh sách giải thưởng từ trung học đến đại học dài gần 1/3 trang A4! Mà, không phải giải thưởng vớ vẩn, toàn là những giải thưởng của Thủ hiến bang, bộ trưởng, hiệu trưởng đại học, khoa trưởng, hiệp hội y khoa, v.v.

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

Việt Nam còn ăn xin đến bao giờ?

Tác·giả: Nguyễn·Văn·Tuấn
2015-04-03

Thật ra, đó là câu hỏi của người đại diện JICA (Quĩ Hợp tác Quốc tế của Nhật) dành cho phía Việt Nam trong cuộc họp báo hai ngày trước ở VN (1). Điều vui vui là phóng viên đặt câu hỏi rằng Quốc hội VN về tài trợ của Nhật có ràng buộc (như phải thông qua hay dùng nhà thầu Nhật), ông đại diện nói rất thẳng là “Tôi nghĩ đến câu chuyện Việt Nam lúc nào không cần ODA nữa. Đến nay Việt Nam đã nhận ODA 20 năm. Bao giờ Việt Nam không cần cần nữa? 10 năm hay 20 năm nữa?" Có thể hiểu câu đó một cách nôm na là: các anh còn ăn xin đến chừng nào nữa, 10 năm hay 20 năm? Đã ăn xin mà còn cao giọng đòi hỏi! Phải nói rằng đó là một lời bình rất thật, hơi trịch thượng, và có thể làm cho người có tự trọng cảm thấy rất nhục.

Ông đại diện JICA không chỉ mắng là ăn xin đến khi nào, mà còn gõ đầu cảnh cáo về tình trạng tham nhũng hối lộ. Ông nói thẳng thừng: "Nếu có vụ tham nhũng nữa, Nhật sẽ ngưng viện trợ ODA cho VN". Bất quá tam. Thú thật, đọc câu đó thoạt đầu tôi cứ tưởng là chuyện “Cá Tháng Tư”, chứ có ngờ đâu là tin thật. Cảm giác đầu tiên dĩ nhiên là thấy nhục nhã, bởi vì để cho một nước khác nói thẳng như thế, nói trong tư thế của kẻ bề trên. Nhưng nghĩ lại thì thấy cũng … đáng. Quen thói “ăn không chừa thứ gì” (lời của một quan chức cao cấp) thì cũng phải đến ngày bị người ngoài mắng cho một trận nên thân. Chỉ tội đa số người dân Việt phải hứng chịu sự khinh bỉ của người khác.

Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2015

Địa đàng ở phương Đông

Tác·giả: Nguyễn Văn Tuấn
Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan Sydney, Australia 



Tìm hiểu cội nguồn văn minh và văn hóa dân tộc hiện đang là một đề tài thời sự nóng trên thế giới, bởi vì trong xã hội hiện đại và thế kỉ 21, văn hóa sẽ là một yếu tố nhận dạng của một dân tộc. Ở nước ta, sách vở và các công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa dù đã và đang phát triển,nhưng nói chung vẫn còn khiêm tốn. Trong bối cảnh đó, bạn đọc đang cầm trên tay một cuốn sách rất quan trọng về lịch sử văn minh và văn hóa Đông Nam Á. Cuốn sách thực chất là một công trình nghiên cứu văn minh và văn hóa thời tiền sử, và có liên quan mật thiết đến Việt Nam. Cuốn sách này đã làm cho Tây phương, và sẽ làm cho bạn đọc, thay đổi cái nhìn cố hữu về văn minh và văn hóa Đông Nam Á. Để làm sáng tỏ hơn câu phát biểu trên, tôi muốn có vài hàng thưa chuyện cùng bạn đọc về những diễn biến dẫn đến sự ra đời và ý nghĩa của tác phẩm này.

Trước thập niên 1960, thế giới nói chung vẫn xem Đông Nam Á là một vùng nước đọng của lịch sử nhân loại, nơi mà các cơn lốc văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hay thậm chí Đông Âu, đi qua và thỉnh thoảng để lại dấu tích. Một quan điểm gần như “chính thống” của đại đa số giới học giả Tây phương là văn hóa Đông Nam Á chỉ là một sự pha trộn văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh Đông Nam Á chẳng có phát kiến gì đáng kể.

Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông của Oppenheimer

Tác·giả: Nguyễn Quang Trọng 


Trong báo Thế Kỷ 21 (số tháng 12 năm 2001, nam California, USA) ông Nguyễn văn Tuấn có đặt lại vấn đề nguồn gốc (Tàu) của dân tộc và văn minh Việt Nam sau khi ông đọc cuốn "Địa đàng ở phương Đông" của Stephen Oppenheimer. (xem ở đây)

Với nhiều điểm mới dựa trên sự tổng hợp tài liệu nhiều ngành (khảo cổ học, ngữ học, di truyền học, dân tộc học) và kết quả nghiên cứu của chính Oppenheimer, "Địa đàng ở phương Đông" phát giác sự đóng góp quan trọng của vùng Đông Nam Á trong lịch sử nhân loại. Ngô thế Vinh đã giới thiệu sách này trong bài "Tìm về phương Đông- Địa đàng lại đánh mất" trong Thế Kỷ 21 số tháng tư năm 2000. Việc Nguyễn văn Tuấn (NVT) tóm tắt cuốn sách đồ sộ này (560 trang với kiểu chữ nhỏ) và thêm những dữ kiện mới thông báo rất đáng ca ngợi. Những thuyết mới về nguồn gốc dân tộc khi được thông báo cho cộng đồng người Việt Nam giúp hiểu thêm về cội nguồn tổ tiên, xóa bỏ mặc cảm tự ti (nếu có). Tuy nhiên, do tầm quan trọng của vấn đề, khi sử dụng những số liệu và dữ kiện để chứng minh quan điểm của mình, có lẽ chúng ta cần thận trọng để tránh các bẫy rập tự tôn, duy chủng tộc, duy dân tộc quá khích.


Tự tôn dân tộc - tự tôn chủng tộc


Người Tàu rất tự tôn, không riêng ở cái tên Trung Quốc tự xưng, mà còn vì thói quen hay tự nhận là "người đầu tiên" sáng chế ra nhiều thứ (dù có phần nào sự thật). Tính tự tôn này đôi khi cũng thể hiện trong lãnh vực khoa học. Một số khoa học gia Trung Quốc muốn chứng minh đất Trung Hoa là nơi phát sinh ra giống dân Á châu, và văn minh tộc Hán là văn minh trung tâm thế giới. Họ cố tình che dấu, giảm thiểu, hay vơ chung vào văn minh tộc Hán những nền văn minh rực rỡ cổ xưa tìm thấy trên đất Trung Hoa nhưng không thuộc vùng ảnh hưởng Hán tộc. Điển hình là trường hợp văn minh Sanxingdui phía bắc Thành Đô (Chengdu, thuộc tỉnhTứ Xuyên), phía nam thượng lưu sông Dương tử. Năm 1986, một nhóm thợ lò gạch tình cờ tìm được một hố tế lễ chứa đầy đồ đồng, vàng và ngọc thạch. Khi đoàn khảo cổ Tứ Xuyên đến đó khai quật, họ tìm ra hố thứ hai. Tổng số đồ vật trên 800 món, với nhiều thức tuyệt xảo bằng đồng, kích thước to, trong đó có tượng người cao bằng người thật (1.72 m), nhiều đầu người và mặt nạ bằng đồng. Đây là tượng đồng to nhất tìm thấy ở Trung Hoa. Tượng có mắt to và xếch, mũi lớn, lông mày rậm dày và miệng thật rộng, rõ ràng không phải chân dung tiêu biểu người Hán. Hơn nữa nền văn minh đời Thương, là văn minh cổ nhất của Tàu, không hề có đồ đồng mang dạng người. Trung Hoa xem đó là cổ vật thuộc nhóm dân Ba- Thục, và xếp chúng vào thời đại cuối thời Thương.

Một nhóm khảo cổ Hoa Nhật khám phá ra thêm một thứ đền "kim tự tháp" ở Longma, phía tây- nam Thành Đô, có cùng những đường nét văn hóa. Đền này nằm tại trung tâm thành cổ, trong khi đền thờ, nơi tế lễ cổ và thuần Trung Quốc (Hán) đều nằm ngoài vòng thành. Các nhà khảo cổ Nhật ước tính tuổi cho nền văn minh này là 3000 đến 4700 năm về trước. Khám phá này được công bố ở Kyoto, Nhật vào tháng 10 năm 1996, hình ảnh được đăng trên những báo lớn và sau đó trong những sách, báo Anh và Pháp ngữ, trong khi báo Trung Hoa không hề đăng, và rất ít thường dân Tàu biết đến tin này. Trên thực tế, Trung Hoa không muốn chấp nhận sự hiện diện một nền văn minh khác, rực rỡ và xưa hơn văn minh Hán tộc vốn dĩ được xem là văn minh gốc của cả nước.