Hiển thị các bài đăng có nhãn Phụng Nghi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phụng Nghi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011

Phụng-Nghi - 100 năm phát-triển tiếng Việt

Biên-khảo: Phụng-Nghi

Bìa: Khánh-Tường

Trình-bày: Cao-Xuân-Huy

Nhà-xuất-bản: Văn-nghệ

Nơi xuất-bản: USA, California

Năm xuất-bản: 1999

(Xuất-bản lần đầu tại Việt-Nam, Nhà-xuất-bản TP HCM,  1993)

Số trang: 179

ISBN: 1-886566-53-4

C0pyright (C) 1999 by Phụng-Nghi

Định-dạng file sách điện-tử: pdf

Dung-lượng: 1,4 MB

Link tải sách về: http://tieulun.hopto.org:25000/download.php?file=100NamPhatTrienTiengViet  

Link dự-phòng: https://docs.google.com

Mục-lục:

......................................................................Trang số

Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011

Việc cải·tiến chữ quốc·ngữ

Tác·giả: GS Lê·Bá·Kông

Đăng ở Nhật báo Người Việt , số 4051, ngày 9-1-1997
(Trích sách “100 năm phát triển tiếng Việt”, Phụng Nghi, Nxb. Văn nghệ, Hoa Kỳ, 1999, trang 161, 162)

Lời của tác giả Phụng Nghi: Năm 1997, Giáo sư Lê Bá Kông, trên một loạt bài “Vài nhận xét về tiếng Việt mến yêu” đăng nhiều kì trên báo Người Việt, California, Hoa Kì, có ý kiến như sau về “Việc cải tiến chữ quốc ngữ”:

(…) “Việc cải tiến chữ quốc ngữ. Các máy điện não (computer) càng ngày càng tiến bộ, chúng ta phải quan tâm tới vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ. Xin nhấn mạnh chữ cải tiến, tức là đề nghị cùng các bực thức giả, ai có ý kiến hay sáng kiến xây dựng, hãy mạnh dạn trình bày, nếu hợp lý và thực tiễn, tất nhiên dần dần theo thời gian, bà con đồng hương sẽ chấp nhận. Mọi sự việc đều không tránh được luật tiến hóa.

Chữ quốc ngữ là do sáng kiến của các nhà truyền giáo Tây Phương phổ biến trong nhiều năm trường để rồi trở thành văn tự của nước ta ngày nay. Nó hoàn toàn dựa theo âm thanh và cung điệu, rồi dùng bộ tự mẫu Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha để phiên âm. Nếu so sánh với Anh ngữ thì quốc ngữ (Việt) hợp lý bội phần; thực vậy, văn tự Anh có thể coi là bất hợp lý nhất, thí dụ một chữ A mà có nhiều cách phát âm: cat (kaet), make (mêk), saw (xo), zebra (zíbrơ), England (íngland), barn (ba:n) … Phụ âm cũng rắc rối lắm: rough (răf), church (tsơts), choir (quái-ơ), cab (kaeb), cease (xi:s) …

Theo thiển ý, (…) chỉ nên cải tiến dần dần, chẳng hạn một hai năm đầu, ta dùng:

- D thay cho Đ hiện nay (di, dược, dông…)

- Z thay cho D hiện nay (zụng, zân chủ, zành…)

- F thay cho PH hiện nay (fương, fải, fi kông…)

- K thay cho K và C như: kính, kênh, kũng, kàng…

Sau một thời gian khoảng hai năm nữa ta đề nghị dùng:

- NG cho cả NG và NGH như: nga, ngưng, ngai, nge…

- J thay cho GI trong những chữ: jờ, jấy, jọng…” (…)

Nguồn: http://vietpali.sourceforge.net/binh/ViecCaiTienChuQuocNgu.htm

Thứ Bảy, 8 tháng 1, 2011

Cái gạch·nối trong chữ Việt

Tác-giả: Phụng Nghi

1. Cái gạch nối

Trong chữ Việt, cái gạch nối dùng để kết hợp những thành tố viết rời của một từ gồm nhiều âm tiết. Nếu viết riêng rẽ thì những âm tiết nói trên sẽ có một nghĩa khác, tức là nghĩa riêng biệt của từng âm tiết. Sau đây là một vài thí dụ:

- "Ðộc" có nghĩa là một, có số lượng chỉ một mà thôi. "Lập" có nghĩa là đứng thẳng. Ghép lại, "độc-lập" có nghĩa: 1. Tự mình sống, không dựa vào người khác. Sống độc-lập. 2. (Nước hoặc dân tộc) có chủ quyền. Nền độc-lập dân tộc.

- "Bà" là người đàn bà thuộc thế hệ sanh ra cha hoặc mẹ ta. "Con" là người thuộc thế hệ mà ta sanh ra. Ghép lại, "bà-con" có nghĩa là thân quyến, người có quan hệ họ hàng. Một người bà con xa.

- "Cay" là có vị như khi ăn ớt, ăn tiêu, ăn gừng hoặc khi uống rượu. "Ðắng" là có vị như khi ăn trái khổ qua, trái bồ hòn, mật cá hoặc uống thuốc bắc. Ghép lại "cay-đắng" (hay "đắng-cay") có nghĩa là đau khổ, xót xa. Thất bại cay-đắng.

Như vậy, ta thấy cái gạch nối có một vai trò rất quan trọng. Nó dùng để phân biệt từ đơn với từ ghép. Từ cuối thế kỷ 19 và trong những thập niên đầu của thế kỷ 20 này, theo ngữ pháp, ta dùng cái gạch nối đối với những từ ghép, mục đích là để câu văn được rõ nghĩa. Trong học đường, thời bấy giờ, đối với những từ ghép, thiếu cái gạch nối là một lỗi chánh tả tương tự như các lỗi chánh tả khác: c với t (các/cát), ch với tr (chương/trương), d với gi (dang/giang), dấu hỏi với dấu ngã...