Hiển thị các bài đăng có nhãn Đặng Hải Nguyên. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đặng Hải Nguyên. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 2 tháng 2, 2011

Tại·sao chỉ có Việt Nam đổi hệ·thống chữ·viết biểu·ý sang hệ·thống chữ·viết dùng chữ·cái La·tinh?

Tác·giả: Đặng·Hải·Nguyên

Tại·sao chỉ có Việt Nam đổi hệ thống chữ viết biểu ý (ký tự – character) từ Nôm tự (quốc ngữ xưa) sang hệ thống chữ viết biểu âm (letter) dùng chữ cái La tinh (quốc ngữ nay) trong khi các quốc gia đồng văn khác như Trung Hoa, Nhật Bản và Triều Tiên thì không?

Thứ Hai, 24 tháng 1, 2011

Phương-châm trong việc tạo từ mới

Tác-giả: Đặng-Hải-Nguyên



  1. Tính dân tộc:

    1.1 Thuần Việt :


    Sử dụng những từ thuần Việt.


    Ví dụ:
    gourmet powder: bột ngọt hay vị tinh.
    stomach: dạ dày hay bao tử.


    1.2 Nho Việt:


    Những từ Nho Việt do người Việt tạo ra, là đặc trưng riêng của Việt Nam.


    Ví dụ:
    stomach: bao tử.  Nếu dịch sát nghĩa từ "bao tử", bao là cái bao, tử là chết; từ "bao tử" không có nghĩa gì trong tiếng Trung Hoa. Theo ngữ pháp Trung Hoa, họ nói ngược lại là "tử bao" dịch sát có nghĩa là "bao chết". Hơn nữ, từ "bao tử" còn mang một ý nghĩa triết lý trong đó.


    Từ "vị tinh" ghi theo Hán tự (Chinese character) hoặc Nho tự là "". Nếu phiên âm theo giọng đọc của tiếng Quảng Đông là "mì chính". Nếu đọc "" theo âm Việt và ghi theo mẫu tự La-tinh thì từ Nho Việt là "vị tinh". Từ "vị tinh" thể hiện rõ nghĩa của từ là tinh chất của vị.


    Please make yourself as home: xin đừng khách sáo (khách khí – 客氣), xin tự nhiên như ở nhà bạn . Từ "sáo" lột tả được nhiều ý nghĩa hơn là từ "khí" (). Hơn nữa, ta có những từ gần với nó như sáo ngữ, nói như sáo.


  2. Tính khoa học

Nguyên-tắc tạo từ mới

Tác-giả: Đặng-Hải-Nguyên


Hán tự hoặc Nho tự được tạo ra theo sáu cách gọi là phép lục thư (六書).


  1. Tượng Hình (象形): căn cứ trên hình tượng của sự vật. Ví dụ:
    Ghép một gạch ngang (
    ), một sổ thẳng (), hai nét phẩy xuống ở hai bên, tượng trưng một cây có cành ngang, rễ dọc, để ghi chữ Mộc "", có nghĩa là "cây".

  2. Chỉ Sự (指事) hay Biểu Ý (表意) (hay tượng sự, xử sự): Trông mà biết được, xét mà rõ ý. Ví dụ:
    Chữ Bản (
    ), do ghép chữ Mộc () và thêm gạch ngang diễn tả ý nghĩa "gốc rễ".
    Lấy nét ngang (
    ) làm mốc, phần (–) đứng ở trên mốc là () thượng, phần đứng ở dưới mốc là () hạ.

  3. Hội Ý (會意) (hay tượng ý): Mỗi chữ có nhiều phần, mỗi phần có một nghĩa, hợp ý của hai chữ ấy lại để tạo ra một chữ mới với ý mới. Ví dụ:
    Chữ Lâm (
    ) là rừng , do ghép hai chữ Mộc () tạo thành, rừng do nhiều cây hợp thành.
    Chữ Cổ (
    ) là xưa, ngụ ý điều gì mà mười ( Thập) miệng ( Khẩu) đã nói đến là cũ, xưa rồi.

  4. Hình Thanh (形聲), (hay tượng thanh, hài thanh): chiếm 80% toàn bộ chữ Hán. Mượn phần âm () của một chữ có sẵn rồi ghép vào một bộ (phần hình ) chỉ ý nghĩa, để tạo ra chữ mới. Ví dụ:
    Chữ Vị (
    ) trong "khẩu vị" do ghép bộ Khẩu () chỉ việc ăn hoặc nói, và chữ Vị () là "chưa" trong "chưa đến – vị lai" để chỉ cách phát âm.
    Chữ Giang
    là sông, gồm bộ Thuỷ () để chỉ vật gì có liên quan đến nước (ý nghĩa) và chữ công () chỉ cách phát âm của chữ ", Giang". Ghi chú: theo cách tạo từ này, lẽ ra phải đọc là "Giông" chứ không phải "Giang" vì nó lấy âm "ông" trong chữ "công, ".  Nếu thay âm "Gi" Việt cổ (?) hay Hán cổ (?) bằng âm "S" Việt hiện nay, chữ ta đọc là "sông", nghĩa là sông (river) là hợp tình hợp lý nhất?! Trong 80% toàn bộ chữ Hán được tạo theo phương thức Hình Thanh, có bao nhiêu chữ thuộc loại này? Phần này để các bạn cũng như các nhà nghiên cứu suy nghĩ thêm về tính chính danh của cách gọi "từ Nho Việt" thay cho "từ Hán Việt".

  5. Chuyển Chú (轉注): Dùng một chữ có sẵn, thay đổi hình dạng đi đôi chút, để đặt ra một chữ khác có nghĩa tương tự. Ví dụ:
    Ghép bộ Thảo (cây cỏ) vào chữ Lạc (
    , vui vẻ) thành chữ Dược () là thuốc
    Chữ Lão (
    ) là già, thay đổi hình dạng đôi chút ta có Khảo () nghĩa là "sống lâu".

  6. Giả Tá (假借): Mượn âm của một chữ có sẵn:
    a. Biến đổi dấu giọng (thanh) của chữ ấy để tạo thành một chữ mới với nghĩa khác.
    Ví dụ:
    Trường: dài, Trưởng: lớn.
    b. Giữ nguyên thanh âm của một chữ nào đó, rồi gán thêm cho nó một nghĩa mới.
    Ví dụ:
    Vạn, vốn có nghĩa là con bò cạp, nhưng lại dùng thêm nghĩa mới là mười ngàn.


Nhờ chữ quốc ngữ viết bằng mẫu tự La tinh, chúng ta không bị đóng khung trong phép "lục thư" trong việc tạo từ mới.