Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Quốc Vương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Quốc Vương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2016

Khi người thầy nhầm lẫn “quyền lực” với “quyền uy”

Khi trực tiếp quan sát các giờ học ở trường tiểu học Việt Nam, Tanaka vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra một thực tế hoàn toàn tương phản với Nhật Bản. Đó là ở Việt Nam trong bất cứ lớp học nào, học sinh cũng thường ngồi yên rất ngoan ngoãn và lắng nghe giáo viên giảng bài. Ông rất ngạc nhiên khi thấy có rất ít học sinh nói chuyện riêng, ngủ gật hay chạy ra khỏi lớp học. Thêm nữa mỗi khi giáo viên đưa ra câu hỏi rất nhiều học sinh giơ tay trả lời một cách nghiêm túc đến mức kinh ngạc với cánh tay đặt vuông góc trên mặt bàn. Tanaka kinh ngạc bởi ông đã quen với chuyện ở nước Nhật trong nhiều trường tiểu học, học sinh có thể ngồi khi phát biểu ý kiến, tranh luận với bạn bè hay giáo viên trong giờ học. Đôi khi học sinh có thể phát biểu mà không cần giơ tay xin phép khi ý tưởng vụt đến. Tại sao học sinh tiểu học Việt Nam lại có tinh thần nhẫn nại và sự chịu đựng bền bỉ đến thế cho dù trong nhiều giờ học giáo viên chỉ đọc đi đọc lại nội dung sách giáo khoa một cách rất nhàm chán?

Tác·giả: Nguyễn·Quốc·Vương
Tháng Bảy 12, 2011

Trong thời gian qua,  báo chí trong nước liên tục đưa tin về những vụ giáo viên bạo hành học sinh. Đã có nhiều bài báo  bàn về nguyên nhân và đề xuất các biện pháp giải quyết tình  trạng này.  Bài viết nào  cũng có căn cứ và tính thuyết phục của nó nhưng theo tôi tình trạng giáo viên bạo hành học sinh phải được xem xét trong mối quan hệ hữu cơ với một lọat các hiện tượng khác cùng những yếu tố có liên quan. Thêm nữa  không nên chỉ nhìn nhận nạn thầy bạo hành trò trong phạm vi  hẹp là những hành động “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” mà cần khảo sát nó  ở phạm vi rộng hơn. Với ý nghĩa đó, ở  bài viết này, tôi muốn đề  cập tới góc nhìn của nhà giáo dục học người Nhật Tanaka Yoshitaka(1), người đã có ba năm( 2004-2007) làm việc ở Việt Nam trong vai trò  cố vấn  giáo dục. Khi nghiên cứu về mối quan hệ thầy trò ở Việt Nam, Tanaka  đã xem xét nó trong sự tương tác của các yếu tố kết thành hệ thống và cho rằng ở Việt Nam mối quan hệ thầy trò ở nhà trường bị phá hỏng vì  ở người thầy có sự  ngộ nhận  nghiêm trọng giữa “quyền lực” và “quyền uy”.

Thứ Ba, 16 tháng 6, 2015

Người Nhật khác người Việt như thế nào? Người Nhật “tốt” hay “không tốt”?

dễ hiểu khi bạn thấy trong chốn công sở hay cửa hàng họ [người Nhật] vừa quỳ xuống nói chuyện với bạn rất ân cần với nụ cười tươi nhưng khi bước ra ngoài đường họ hoàn toàn xa lạ với bạn dù vừa mới giáp mặt và tư vấn cho bạn trước đó chưa đầy... 2 phút.


Tác·giả: Nguyễn Quốc Vương


Người Nhật “tốt” hay “không tốt”?

Khi mới tiếp xúc với một nền văn hóa nào đó hoặc tiếp xúc lâu nhưng không thể thâm nhập sâu được vì rào cản ngôn ngữ người ta thường không tránh khỏi những nỗi kinh ngạc.Vợ tôi cũng thế.

Đến đâu, sau khi làm việc với người Nhật xong vợ tôi đều bảo “ông ấy tốt thế”, “chị ấy tốt thật”. Những người vợ tôi vừa “khen” và cảm động là các nhân viên làm việc ở tòa thị chính, ngân hàng, các bác sĩ, y tá làm ở bệnh viện…
Tôi bảo vợ: “Chẳng phải thế đâu. Biết thế nào là tốt. Họ chỉ làm công việc của họ thôi”. Nghe thế, vợ tôi có vẻ không bằng lòng, cau mặt lườm: “Cứ nói như anh ấy…”.

Kỳ thực đúng là như thế. Nếu bạn sống hợp pháp ở Nhật thì kể cả bạn không hề biết một từ tiếng Nhật và là người nước ngoài trong hầu hết các trường hợp bạn sẽ vẫn nhận được sự ân cần, chu đáo và lịch sự ở các cơ quan công quyền lẫn nhưng nơi cung cấp dịch vụ. Lý do đơn giản nằm ở chỗ cả pháp luật và quan niệm đạo đức thông thường, phổ biến trong xã hội Nhật đều coi các nhân viên công quyền là người làm thuê nhận tiền công (lương) từ tiền thuế của dân. Cảm quan của người Nhật về tiền thuế rất rõ ràng và mạnh mẽ. Những sự lãng phí hay các vụ biển thủ tiền công làm cho họ tức giận nghiêm trọng.

Thứ Năm, 2 tháng 4, 2015

Giáo dục đạo đức trong trường học Nhật Bản

Người dịch: Nguyễn Quốc Vương

2015-04-02

Ảnh: http://japan.net.vn
Giáo dục đạo đức ở Nhật Bản chủ yếu là nói tới việc giáo dục đạo đức, tình cảm, năng lực phê phán đạo đức và lòng mong muốn thực tiễn.

Giáo dục đạo đức được tiến hành ở trường học hiện tại được quy định bởi bản Hướng dẫn học tập ở đó “giáo dục đạo đức được tiến hành thông qua toàn thể hoạt động giáo dục của trường học và không phải là một môn giáo khoa độc lập”. Tức là giáo dục đạo đức được tiến hành ngay cả trong các giờ học các môn giáo khoa như là Quốc ngữ, Xã hội hay hoạt động đặc biệt. Đây là một trong những căn cứ chứng tỏ rằng đạo đức là thứ mà ngay cả trong trường hợp không được (bị) đánh giá từ bất cứ ai đi nữa vẫn cần phải được tiến hành. Điều đó có nghĩa là tất cả các hoạt động tiến hành trong trường học không có ngoại lệ nào đều phải truy cầu đạo đức đồng thời các hoạt động diễn ra ở bên ngoài trường học cũng phải đáp ứng yêu cầu đó. Và rồi cuối cùng thì đạo đức là thứ xứng đáng với sự đánh giá.

Trong khóa trình của trường tiểu học, trung học cơ sở, thời gian dành cho đạo đức trong một năm là 35 giờ (ở tiểu học mỗi giờ học dài 45 phút, ở trường trung học cơ sở dài 50 phút). Tuy nhiên thực tế nó được chia thành 34 giờ tức mỗi tuần 1 giờ. Ở các trường tư thục có mối liên hệ với tôn giáo như Thiên chúa giáo, Phật giáo, hay các trường tư thục thuộc các tôn giáo mới thì đa phần tiến hành thời gian “tôn giáo” thay cho đạo đức. Ở Âu Mĩ không có các thời gian như vậy mà thay vào đó là giáo dục tôn giáo. Ở Anh thì cùng với thời gian dành cho tôn giáo còn có thời gian PSHE (Personal, Social and Health Education) đảm nhận việc học tập về tôn giáo và kĩ năng xã hội ở nghĩa rộng.

Ở các trường trung học phổ thông trực thuộc tỉnh có rất ít trường tiến hành giờ học đạo đức. Các trường ở Ibaraki và Saitama là ngoại lệ. Tỉnh Chiba từ năm 2013 cũng du nhập mô hình này.

Các nội dung chỉ đạo trong thời gian dành cho “đạo đức”

Các nội dung dựa trên 4 trụ cột cần trang bị cho bản thân học sinh thông từ trường tiểu học đến trung học cơ sở đã được bản Hướng dẫn học tập nêu ra như dưới đây.

(1) Nội dung liên quan tới bản thân

– Các lớp bậc thấp: Sức khỏe-an toàn. Coi trọng vật và tiền. Gọn gàng, ngăn nắp. Cuộc sống với quy tắc đúng đắn. Thực thi nghĩa vụ. Phán đoán thiện ác. Chính trực.

– Các lớp giữa: Tự chủ. Cuộc sống điều độ. Suy nghĩ sâu sắc. Xin lỗi và hối cải. Cương quyết-bất khuất. Dũng cảm. Chính trực. Trong sáng

– Các lớp trên: Tiết chế. Thiết lập mục tiêu. Tự do. Thành thật. Truy tìm chân lý. Công phu sáng tạo. Đánh giá bản thân.

– Học sinh trung học cơ sở: Thói quen- cuộc sống mong ước. Sức khỏe. Tiết chế. Cuộc sống hài hòa. Hi vọng và dũng cảm. Tính tự chủ. Trách nhiệm. Thực hiện lý tưởng. Hướng thượng bản thân. Phát huy cá tính.

(2) Nội dung liên quan đến người khác