Tác·giả: Trần Đình Sử
Đại học Sư phạm Hà Nội
1. Tiếng Việt có một vốn từ Hán - Việt rất lớn. Tuy chưa có con số thống kê xác định, song các nhà ngôn ngữ ước lượng số từ đó chiếm từ 60-80% từ vựng tiếng Việt. Trong số từ Hán Việt tiếp thu được từ thư tịch Hán cổ, từ Hán ngữ hiện đại, có một loạt từ Hán Việt, tuy tiếp thu chủ yếu qua con đường từ sách báo Trung Quốc nhưng lại có nguồn gốc Nhật Bản, chính người Trung Quốc cũng xem là từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật Bản của họ. Có thể có cả từ gốc Nhật người Nhật trực tiếp đem đến Việt Nam hoặc người Việt trực tiếp vay mượn.
2. Dựa vào Từ điển từ ngoại lai của tiếng Hán do các tác giả Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn từ năm 1958, hoàn thành vào năm 1978, xuất bản năm 1984(1) có thể nhặt ra khoảng trên 350 từ gốc Nhật mà ngày nay vẫn được sử dụng trong tiếng Việt, chắc chắn là tiếp thu qua sách báo Trung Quốc. Các từ đó là:
a- Về chính trị, xã hội có: Quốc lập, quốc thể, Cơ quan, kiên trì, độc tài, độc chiếm, thừa nhận, thành viên, xuất phát điểm, bối cảnh, nguyên tắc, trọng điểm, xã giao, thi hành, lao động, nghị viện, nghị quyết, chính sách, chính đảng, tổ chức, phương châm, hiến pháp, mục tiêu, nội các, tuyển cử, tuyên truyền, hiệp hội, hiệp định, nhân quyền, xã hội, nhân văn chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, giai cấp, vô sản, quyền uy, lập hiến, lập trường, lãnh thổ, đặc quyền, đặc vụ, đồng tình, thị trường, biểu quyết, hiến binh, nghĩa vụ, tư bản, tự do, chỉ thị, chỉ đạo, trung tướng, thiếu tướng, thiếu úy, nguyên soái, trọng tài, công dân, cách mạng, cao trào, quan điểm, quốc tế, công nhận, công bố, cộng hòa, cương lĩnh, cán bộ, chi bộ, tập trung, tập đoàn, giải phóng, câu lạc bộ, quân nhu, quan hậu, hội đàm, động viên, đại biểu, đại bản doanh, pháp luật, phản đối, kháng nghị, phản động, đại cục, đề kháng, tổng lãnh sự, tổng động viên, thẩm phán, thẩm vấn, bồi thẩm viên, thời sự, thực quyền, xâm phạm, tuyên chiến, dân chủ, tư pháp, phán quyết, phục vụ, phủ quyết, phần tử, thủ tiêu, tiến triển, lý tưởng, đăng kí, đơn vị, quốc giáo, hàng không mẫu hạm, Cơ đốc giáo, chiến tuyến.
b- Về thương nghiệp, kinh tế có: Động sản, bất động sản, dự toán, ngân hàng, tài phiệt, xuất khẩu, nhập khẩu, nhập siêu, xuất siêu, kinh doanh, tối huệ quốc, tín dụng, hiệu quả, tiêu phí, bảo hiểm, sinh sản, thương nghiệp, thống kê, đầu tư, đầu cơ, thực nghiệp, công nghiệp, kinh tế, kế hoạch, giao thông, giám định, cố định, quảng cáo, qui phạm, thi công, quốc khố.
c- Về triết học có: Triết học, hư vô chủ nghĩa, hình nhi thượng, tri thức, nội tại, ngoại tại, hữu tượng, khánh thể, chủ thể, khách quan, chủ quan, chủ động, ngẫu nhiên, tất nhiên, hiện tượng, bản chất, tất yếu, hiện thực, khẳng định, phủ nhận, phủ định, nguyên tố, yếu tố, tương đối, tuyệt đối, tích cực, tiêu cực, bi quan, nội dung, quan niệm, năng động, tính năng, ý thức, vật chất, lí trí, lí tính, lí luận, khái niệm, phạm trù, tư tưởng, tư trào, không gian, thời gian, mệnh đề, biểu tượng, nguyên lí, kinh nghiệm, mục đích, động cơ, phân tích, phân giải, ấn tượng, tưởng tượng, ám thị, tổng hợp, diễn dịch, trực tiếp, gián tiếp, trực quan, trực giác, qui nạp, khái quát, định nghĩa, tinh thần, pháp tắc, tiến hóa, tiến hóa luận, thoái hóa, năng lực, phương thức, chủ nghĩa, biện chứng pháp, nguyên động lực, duy vật luận, duy tâm luận, thế giới quan, luận chiến, chất lượng, giao tế, giám định, cơ chất, quá độ, hoàn cảnh, đơn thuần, tín hiệu, dị vật, kí hiệu.
d- Về khoa học, giáo dục có: Khoa học, khoa mục, khóa trình, lũy tiến, chân không, chỉ số, diễn tập, thể dục, thể thao, học hội, kim cương, truyền nhiễm, kích thích, loại hình, xã hội học, luận lí học, tâm lí học, sinh lí học, ngữ nguyên học, địa chất học, động lực học, lượng tử, bán kính, dương cực, âm cực, thám hiểm, nhân cách, vật lí, hóa học, tiêu hóa, ôn độ, khuếch tán, bão hòa, giáo dục học, giáo khoa thư, lực học, tĩnh mạch, động mạch, thần kinh, thôi miên, tế bào, thăng hoa, hệ thống, đức dục, địa chất, kiến tập, phản ứng, phản xạ, mẫn cảm, huyết sắc tố, phóng xạ, bức xạ, phương án, phương trình, thôi miên, cơ giới, phát minh, thần kinh giao cảm, giả định, vận động, tổ hợp, din dưỡng, di truyền, y học, giải phẫu, ý nghĩa, bạch kim, nguyên tử, tiêu bản, thành phần, trường hợp, thường thức, quan trắc, học vị, nghiệp vụ, bác sĩ, giảng sư, quan tuyến, hóa thạch, giáo thụ.
e- Về văn hóa, nghệ thuật có: Bi kịch, mĩ thuật, mĩ cảm, mĩ hóa, văn học, kịch trường, vũ đài, đạo cụ, sáng tác, giao hưởng, kiến trúc, ca kịch, nguyên tắc, diễn xuất, diễn thuyết, nghệ thuật, diễn tấu, đăng tải, xuất bản, tham quan, tạp chí, chủ bút, tân văn, kí giả, tư liệu, tác phẩm, tác giả, tọa đàm, chế bản, mạn đàm, văn hóa, văn minh, hội thoại, quảng trường, kị sĩ, kỉ lục, triển lãm.
3. Số từ Hán Việt gốc Nhật trên đây được tiếp nhận từ Hán gốc Nhật trong một thời gian dài. Có nhiều từ như cách mạng, thực nghiệp, nghị viện tiếp thu từ đầu thế kỉ. Các từ giai cấp, vô sản, lập trường… tiếp thu từ những năm 20. Các danh từ khoa học giáo dục thì muộn hơn, các từ như chế bản có lẽ là du nhập gần đây.
4. Không phải mọi từ Hán gốc Nhật đều chuyển thành từ Hán Việt gốc Nhật. Chẳng hạn từ Hán gốc Nhật "Nhân lực xe" - người Việt có từ xe tay, xe kéo cho nên không vay mượn nữa. Từ Hán gốc Nhật có bi kịch, hỉ kịch, lãnh thổ, lãnh không, lãnh hải… nhưng người Việt chỉ tiếp thu từ bi kịch, còn hỉ kịch thì gọi băng hài kịch, người Việt không dùng các từ lãnh hải, lãnh không mà dùng từ vùng biển, vùng trời. Từ Hán gốc Nhật còn nhiều từ nữa mà không trở thành từ Hán Việt gốc Nhật.
5. Các từ Hán Việt gốc Nhật có hai loại chủ yếu:
a, Một loại gồm các từ do người Nhật sử dụng yếu tố Hán để tạo ra từ của mình nhằm phiên dịch, diễn đạt các khái niệm mới về khoa học, giáo dục, chính trị, xã hội như các từ: chính đảng, giai cấp, tuyên truyền, công dân, dân chủ, xã hội chủ nghĩa, hư vô chủ nghĩa, tế bào, chân không… Loại này đều mang một hàm nghĩa hiện đại xác định, không gây nhầm lẫn hiểu lầm nào.
b, Loại thứ hai gồm các từ người Nhật vay mượn từ của Trung Quốc từ nguồn thư tịch cổ, rồi phú cho nó một ý nghĩa mới, như: văn minh, văn hóa, cách mạng, văn học, tưởng tượng, tinh thần, pháp luật, phân tích, phân phối, pháp tắc…
Những từ này đối với người Trung Quốc, cũng như đối với người Việt Nam, chúng vừa quen lại vừa lạ, và do đó nhiều khi không nhận ra cái nghĩa ngoại nhập mới mẻ của nó.
Ví dụ: hai chữ "cách mạng", trong Kinh Dịch có câu: "Thiên địa cách nhi tứ thời thành, Thang Vũ cách mạng, thuận hồ thiên ứng hồ nhân" – nghĩa là Trời đất đổi thay mà thành bốn mùa, Thang Vũ đổi thay mệnh, thuận theo trời mà ứng theo người". Nhưng cách mạng trong ý nghĩa hiện đại hoàn toàn khác: đó là một cuộc đổi thay lớn, trọng đại trong công cuộc cải tạo xã hội và thiên nhiên, một cuộc nhảy vọt từ chất cũ sang chất mới, chứ không phải đổi thay thông thường, như mùa này thay mùa kia. Đây là người Nhật dùng để dịch ý từ tiếng Anh revolution.
Lại ví dụ từ "văn hóa", trong tiếng Hán cổ chỉ việc "văn trị, giáo hóa". Người Nhật dùng từ này để dịch ý từ tiếng Anh culture tức là chỉ toàn bộ các giá trị tinh thần và vật chất mà con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của mình. Ông Đặng Thai Mai đã nói về cảm nhận quen mà lạ đối với từ này như sau: "Danh từ "văn hóa" chúng ta đã mượn ở tiếng Tàu - người Tàu lấy hai chữ này ở sách cổ - bộ Kinh Dịch để phô diễn một khái niệm mới của khoa học hiện đại… Vậy muốn có ý niệm xác đáng, ta phải công nhận cho chữ "văn hóa" hiện thời một nghĩa mới, nguồn gốc tự Tây phương"(1).
Từ Văn học lại càng thú vị. Đây là từ người Nhật dùng để dịch ý từ tiếng Anh literature: với hàm nghĩa là chỉ các tác phẩm dùng ngôn ngữ, văn tự làm công cụ để biểu hiện một cách hình tượng đời sống con người, bao gồm thơ ca, tiểu thuyết, tản văn, kịch, kí. Trong Luận ngữ có câu: Văn học Tử Du Tử Hạ" thì văn học được dùng với nghĩa là học vấn uyên bác, biết nhiều về văn hiến, không dính dáng gì với ý nghĩa hiện đại. Lương Khải Siêu từng ở Nhật, hấp thu từ văn học của Nhật, cho nên trong trước tác của ông hai chữ văn học khi thì chỉ học vấn, khi thì chỉ văn học bao gồm tiểu thuyết và kịch, một ý nghĩa mà người Trung Quốc xưa không bao giờ nghĩ đến. Nhà nghiên cứu Nhật, Tá Đằng Nhất Lang cho rằng đó là ảnh hưởng Nhật(2). Ở Việt Nam có lẽ ông Võ Liên Sơn là sớm nhất nhận ra cái nghĩa mới của từ đó. Năm 1927, ông viết; "danh từ văn học bây giờ người Tàu, người Nhật chỉ dùng theo nghĩa mới, nghĩa hẹp, cũng như hai chữ mĩ văn (belles lettres), nhưng từ thứ văn có tình cảm, mĩ cảm, thuộc về phạm vi nghệ thuật, chứ không gồm cả bao nhiêu văn tự kĩ thuật khác, nó thuộc về phạm vi khoa học"(3) và các tác giả đương thời sử dụng hai chữ này theo nghĩa mới một cách tự nhiên. Ví dụ Phạm Quỳnh viết Văn học nước Pháp (1921), Phan Khôi viết: Tục ngữ, phong dao và địa vị của nó trong văn học (1939). Nguyễn Thị Kiên viết Nữ lưu với văn học (1932). Các tập văn học sử của các tác giả đồng thời dùng hai từ văn học. Ông Đặng Thai Mai cũng viết: Dưới ảnh hưởng của tư triều Âu, Mỹ, hai chữ văn học ngày nay đã bao hàm một ý nghĩa khác hẳn nghĩa đen ngày xưa của nó(4).
Loại từ thứ hai này chỉ là một lối vay mượn từ có sẵn từ xưa để định nghĩa một từ mới của các nước, đó là một ước lệ, thiết nghĩ nên hiểu theo nghĩa mới đó trong dòng chảy của từ vựng.
Từ Hán Việt gốc Nhật là một phạm vi từ rất đặc biệt. Nó phản ánh các mối quan hệ văn hóa đặc thù của các nước Châu Á trong tư triều Âu Mỹ hiện đại. Nhật chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và đã tác động trở lại tiếng Hán. Người Việt qua sách vở Trung Quốc mà tiếp thu từ mới của Nhật và qua đó mà tiếp thu văn hóa phương Tây.
Việc xác lập các từ có nguồn gốc Nhật và sẽ góp phần để xác lập các từ Hán Việt gốc Việt, do người Việt sáng tạo ra. Nhưng đó sẽ là một vấn đề khác.
Chú thích:
1. Đặng Thai Mai, Nguyễn Hữu Đang: Định nghĩa hai chữ văn hóa/ Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam (1900-1945), T5, H.Văn học, 1997, tr.327.
2. Tá Đằng Nhất Lang: Trung Quốc văn chương luận, Thượng Hải cổ tịch, 1996, tr.250.
3. Võ Liêm Sơn, Văn học và xã hội/ Thơ văn Võ Liêm Sơn, Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh, Vinh 1993, tr.135.
4. Văn học khái luận, 1994/ Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học 1900 – 1945, T.5. Nxb Văn học, Hà Nội, 1997. tr.288.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét