Hiển thị các bài đăng có nhãn Từ·vựng tiếng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Từ·vựng tiếng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017

Chữ Việt gốc Pháp còn tồn tại đến ngày nay

Tác giả: Nguyễn Đức Tuấn - Tống Phước Hiệp
Monday, 8 July 2013

.....

Hiện tại, trong vốn từ của Việt nam, ngoài 65% là từ gốc Hán còn khoảng hơn 400 từ là từ gốc Pháp, các từ này vẫn còn đang được sử dụng khắp nơi, nhiều khi miệng nói ra nhưng bạn không biết mình vừa nói một câu có chữ Pháp trong đó.

Lấy ví dụ:

Thằng đó chuyên môn lấy le để đi cua đào, nhưng con nhỏ kia thì lại hay làm reo.

Một câu như vậy là đã có 3 chữ Pháp, đó là chữ le, chữ cua và chữ reo, bởi vì trong tiếng Việt "le" là động từ trong khi ở đây là danh từ, "cua" trong tiếng Việt là danh từ trong khi ở đây là động từ, "reo" trong tiếng Việt là động từ trong khi ở đây là danh từ.

Các chữ đó vì đã quen dùng, ít người còn biết gốc gác là do đâu. Nếu việc phiên âm thể hiện rõ ràng thì bạn có thể lần mò mà tra ra được, song rất nhiều chữ mơ hồ, bạn đi tìm nguồn gốc rất khó.

Ví dụ:

Cây láp là do chữ gì ?

Doa là do chữ gì ?

Ca-ve là do chữ gì ?

Ma-cà-bông là do chữ gì ?

Những chữ như vậy, muốn biết, bạn phải đi hỏi những người đã từng sống trong thời Pháp và biết tiếng Pháp, tức những người từ 65 tuổi trở lên. Tiếc thay, số này còn lại không nhiều, các bậc cao niên thì lần lần ra đi hết, và trong số đó, không phải chữ nào họ cũng biết, vì có những chữ thuộc ngành nghề, có ở trong nghề mới biết.

Tiếng Việt gốc Pháp

Các phương pháp phiên âm

Nói cho đúng, các từ ngữ của Pháp du nhập vào Việt nam bằng nhiều con đường khá tản mạn: hoặc do thợ thuyền, hoặc do các nhà văn, nhà báo, khách ăn chơi, gái giang hồ, mỗi người phiên âm một cách, không thống nhất nhau. đàng khác, người miền Nam phiên âm theo cách của người miền Nam, người miền Bắc phiên âm theo cách của người miền Bắc, do đó cùng một chữ nhưng ta thấy có 2 cách phiên âm khác nhau.

Có thể xếp các cách phiên âm thành 6 dạng:

Thứ Tư, 15 tháng 2, 2017

Từ Hán Việt gốc Nhật trong tiếng Việt

Tác·giả: Trần Đình Sử 
Đại học Sư phạm Hà Nội

1. Tiếng Việt có một vốn từ Hán - Việt rất lớn. Tuy chưa có con số thống kê xác định, song các nhà ngôn ngữ ước lượng số từ đó chiếm từ 60-80% từ vựng tiếng Việt. Trong số từ Hán Việt tiếp thu được từ thư tịch Hán cổ, từ Hán ngữ hiện đại, có một loạt từ Hán Việt, tuy tiếp thu chủ yếu qua con đường từ sách báo Trung Quốc nhưng lại có nguồn gốc Nhật Bản, chính người Trung Quốc cũng xem là từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật Bản của họ. Có thể có cả từ gốc Nhật người Nhật trực tiếp đem đến Việt Nam hoặc người Việt trực tiếp vay mượn.

2. Dựa vào Từ điển từ ngoại lai của tiếng Hán do các tác giả Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn từ năm 1958, hoàn thành vào năm 1978, xuất bản năm 1984(1) có thể nhặt ra khoảng trên 350 từ gốc Nhật mà ngày nay vẫn được sử dụng trong tiếng Việt, chắc chắn là tiếp thu qua sách báo Trung Quốc. Các từ đó là: 

a- Về chính trị, xã hội có: Quốc lập, quốc thể, Cơ quan, kiên trì, độc tài, độc chiếm, thừa nhận, thành viên, xuất phát điểm, bối cảnh, nguyên tắc, trọng điểm, xã giao, thi hành, lao động, nghị viện, nghị quyết, chính sách, chính đảng, tổ chức, phương châm, hiến pháp, mục tiêu, nội các, tuyển cử, tuyên truyền, hiệp hội, hiệp định, nhân quyền, xã hội, nhân văn chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, giai cấp, vô sản, quyền uy, lập hiến, lập trường, lãnh thổ, đặc quyền, đặc vụ, đồng tình, thị trường, biểu quyết, hiến binh, nghĩa vụ, tư bản, tự do, chỉ thị, chỉ đạo, trung tướng, thiếu tướng, thiếu úy, nguyên soái, trọng tài, công dân, cách mạng, cao trào, quan điểm, quốc tế, công nhận, công bố, cộng hòa, cương lĩnh, cán bộ, chi bộ, tập trung, tập đoàn, giải phóng, câu lạc bộ, quân nhu, quan hậu, hội đàm, động viên, đại biểu, đại bản doanh, pháp luật, phản đối, kháng nghị, phản động, đại cục, đề kháng, tổng lãnh sự, tổng động viên, thẩm phán, thẩm vấn, bồi thẩm viên, thời sự, thực quyền, xâm phạm, tuyên chiến, dân chủ, tư pháp, phán quyết, phục vụ, phủ quyết, phần tử, thủ tiêu, tiến triển, lý tưởng, đăng kí, đơn vị, quốc giáo, hàng không mẫu hạm, Cơ đốc giáo, chiến tuyến.

Thứ Bảy, 12 tháng 3, 2016

"Châu" hay "Chu"?

Phim kiếm hiệp cổ trang trước đây chủ yếu là miền Nam dịch, vì thế việc đọc là Châu Bá Thông, Châu Chỉ Nhược được phổ biến là do bản dịch miền Nam. Dịch giả Ngọc Thạch ở miền Bắc không chịu ảnh hưởng của bản dịch miền Nam (hoặc có đọc nhưng không chấp nhận âm miền Nam) nên vẫn dịch là Chu Bá Thông, Chu Chỉ Nhược.
 
Ngành giải trí trong miền Nam phát triển hơn miền Bắc, nên tên các diễn viên, ca sĩ nổi tiếng của Trung Quốc được miền Nam dịch trước cũng là chuyện dễ hiểu, vì thế, Châu Nhuận Phát, Châu Kiệt Luân xuất hiện. Đồng thời, các bạn cũng có thể thấy Huỳnh Hiểu Minh, Huỳnh Dịch (miền Nam kiêng tên chúa Nguyễn Hoàng nên đọc chệch thành Huỳnh – điều này nhiều người biết). Việc đọc là "Huỳnh Hiểu Minh" bị "lan tràn" hoàn toàn do ảnh hưởng âm miền Nam, và dần dần thành thói quen, chứ không bị ảnh hưởng của âm phổ thông như chu-châu.
 
 

Tác·giả: Lê·Huy·Hoàng   
2010-11-09
Cho tới nay, một số chữ Hán vẫn tồn tại hai cách đọc Hán Việt, xét về mặt ý nghĩa thì không có sự phân bý nghĩa của hai âm đọc đó 
 
 

(tức là dù đọc âm nào thì ý nghĩa vẫn như nhau). Ở đây tôi khảo sát hai âm đọc thường gặp là Châu và Chu.
 
1. Khảo âm:

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2016

Hai tiếng "Việt kiều"

Tác giả: Dũng Vũ

Không biết hai tiếng "Việt kiều" đã ra đời bao giờ và ai là tác giả. Người ta chỉ biết nó đã được đẻ ra để chỉ người Việt sống ở hải ngoại. Lâu nay nó đã được dùng khắp xã hội như một cái tên gọi bình thường.

Thực ra, "Việt kiều" là một sản phẩm ngôn ngữ khác thường. Khác thường từ cú pháp (syntax) cho tới dụng ngôn (pragmatic), từ ngữ nghĩa (semantic) cho tới văn hóa.

Chữ "Việt" thì ai cũng biết, còn "kiều" có nghĩa là gì ?

Kiều là một từ gốc Hán. Theo Từ điển Hán-Việt của Thiều Chửu [1] và Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh [2] , từ đồng âm này có nhiều nghĩa, ví dụ, cái cầu 橋, cái lông dài ở đuôi chim 翘, v.v… Nhưng dùng cho từ ghép "Việt kiều", thì "kiều" 僑 có nghĩa là ở đậu, ở nhờ một làng, một nước nào đó.

Như vậy, "Việt kiều" có nghĩa là người Việt ở đậu, ở nhờ.

Thứ Năm, 19 tháng 12, 2013

Dạy chữ Hán hay dạy từ Hán-Việt?

Tác·giả: Nguyễn·Đức·Dân

Trên Tuổi trẻ cuối tuần (26.06.2010) PGS TS Đoàn Lê Giang viết bài “Cần khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường”, trong đó nói người Hàn và người Nhật cũng dạy chữ Hán cho học sinh trung học. Tác giả viết “chừng nào chúng ta còn coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc, chừng nào chúng ta còn nhìn các nước Đông Á như những cái mốc cần phải đuổi kịp thì chừng ấy chúng ta còn cần phải dạy chữ Hán”. Tôi đồng ý một phần với bài viết này: Trong trường trung học cần dạy từ Hán-Việt nhưng không cần dạy chữ Hán.

Người Hàn, người Nhật dạy chữ Hán cho học sinh trung học là cần thiết nhưng người Việt thì không vì chữ Việt không giống chữ Hàn hay chữ Nhật.

Hangul là chữ viết của người Hàn, cũng là thứ chữ ghi âm. Cũng như tiếng Việt, rất nhiều từ tiếng Hàn có gốc Hán. Tiếng Hán có 4 thanh còn tiếng Hàn không có thanh điệu nên những từ cùng vần khác thanh khi nhập vào tiếng Hàn sẽ thành những từ đồng âm, dẫn tới nhiều hiện tượng mơ hồ trên mặt chữ. Khi cần chính xác, trong những văn bản khoa học người ta thường chua thêm chữ Hán sau những cụm từ quan trọng. TS Trần Văn Tiếng nêu ví dụ: Trong tiếng Hàn, có nhiều từ phát âm là sung nên công ty Samsung khi viết từ này đã phải chua chữ Hán tinh vào cuối để người đọc hiểu rằng Samsung là tam tinh. Logo của Samsung là ba ngôi sao. Không biết những chữ Hán cơ bản thì chính người Hàn cũng không đọc hiểu được chữ Hàn nên học sinh Hàn cần học tiếng Hán. Còn người Việt không biết chữ Hán vẫn có thể đọc thông thạo chữ Việt dù không hiểu một số từ nào đó. Hiện nay nhiều người dùng sai từ Hán-Việt vì không hiểu nghĩa của chúng chứ không phải vì không biết chữ Hán. Chúng ta chỉ cần biết nghĩa chứ không cần biết mặt chữ Hán của những từ Hán-Việt (từ Việt gốc Hán). Nhiều nhà nghiên cứu nói rằng, trong tiếng Việt có khoảng 60% - 70% từ gốc Hán. Có học 1000 chữ Hán thì vẫn

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2012

Những từ dùng sai trong ngôn·ngữ Việt·Nam

1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt.
*CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
*KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.
*QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
*HUYỀN THOẠI. 

Thứ Năm, 5 tháng 7, 2012

Tiếng Việt: Có còn trong sáng?

Tác-giả: PGS. TS. Phạm-Văn-Tình


Kể từ khi cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát động công cuộc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (Tạp chí Học tập, s. 4-1966) cho đến nay đã tròn 44 năm. Phong trào này đã được toàn xã hội, đặc biệt là giới Việt ngữ học hưởng ứng với một “lộ trình” lúc lên, lúc xuống, lúc rầm rộ, lúc âm ỉ… Nhưng chưa bao giờ vấn đề giữ gìn và bảo vệ tiếng Việt lại được dư luận quan tâm nhiều như thời gian vừa qua.




Tiếng Việt đang ở đâu?

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

“Hán Việt” và “thuần Việt”

Tác·giả: Cao·Xuân·Hạo

(DVT.vn) - Nhiều từ tưởng là “thuần Việt” thật ra ta đã “vay mượn” từ tiếng Việt-Mường hay tiếng Môn-Khmer. Vậy tại sao lại "ghẻ lạnh" những từ Hán-Việt ông cha ta quen dùng?

Đã có một thời người ta bài trừ hai chữ trực thăng và thay nó bằng mấy chữ máy bay lên thẳng, vì trực thăng là “từ Hán-Việt”, một thứ từ ngữ “ngoại lai”, “đi mượn của người Hán”, tức là từ của tiếng nước ngoài, còn lên thẳng là từ “thuần Việt”, là sản phẩm “cây nhà lá vườn” đáng tự hào của người Việt Nam “chính cống”, tức người “Kinh”, người “Giao Chỉ”, người “Keo” hay người “Yuôn”.

Việc sử dụng nhiều các từ Hán-Việt được nhiều người coi là một hành vi lạm dụng, thậm chí vô đạo đức, cần tránh đến mức tối đa, nhất là khi đã có sẵn những từ  “thuần Việt” có thể dùng để thay thế, và việc thay thế này được coi là một nghĩa cử có tác dụng “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mọi công dân nước Việt. Việc thay thế trực thăng bằng lên thẳng đã từng được đánh giá là “một thành tựu lớn lao trong việc bảo vệ nền văn hóa dân tộc”.

Ngôn·ngữ·học có·thể đóng·góp gì vào việc tìm·hiểu tư·duy và văn·hoá Việt·Nam?

Tác·giả: Cao·Xuân·Hạo 


̣̣̣̣̣̣̣(Tham·luận đọc tại Hội·nghị Quốc·tế về Các giá·trị văn·hoá phương Đông, Hà·Nội 1999).

Giữa tiếng nói của một dân tộc với nền văn hoá của dân tộc ấy chắc chắn phải có một mối quan hệ nhất định. Vì ngôn ngữ trực tiếp phản ánh các tri giác và tư duy thế giới của cộng đồng dân tộc, mà văn hoá dân tộc không thể không liên quan đến cách tri giác và tư duy ấy. Đó là một sự thật không còn có thể đặt thành vấn đề gì nữa.

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2011

Những địa·danh Việt·Nam bị thay·đổi và sai·lệch

Tác·giả: PGS.TS ·Trung·Hoa

Ở Việt Nam, có hàng trăm địa danh bị thay đổi hay sai lệch về ngữ âm và chữ viết. Tìm hiểu những nguyên nhân gây ra sự biến đổi này, chúng ta sẽ hiểu được nguồn gốc và ý nghĩa ban đầu của các địa danh.

Những kiểu thay đổi và sai lệch cụ thể như sau:

1- Do hiện tượng đồng hóa: Hai âm tố khác nhau nhưng đứng gần nhau, âm tố này làm cho âm tố kia giống với nó. Có hai địa danh thuộc kiểu này:

Pha Đin là đèo trên Quốc lộ 6, từ huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đi huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, dài 36km, cao 1.050m. Cũng gọi là Cổng Trời. Chữ Pha Đin từ gốc Tày - Nùng Phạ Đin, nghĩa là “trời đất”, vì đèo quá cao, như chỗ gặp nhau giữa trời và đất. Ở đây có hiện tượng đồng hóa thanh điệu: thanh ngang của Đin đồng hóa thanh nặng của Phạ thành Pha.

Tam Thương là bến trên sông Trà Khúc (Quảng Ngãi). Tam Thương vốn là từ Hán Việt, dạng gốc là Tạm Thương, nghĩa là “kho tạm”, nằm gần bến. Ở đây thanh ngang của Thương đồng hóa thanh nặng của Tạm thành Tam Thương.

2- Do hiện tượng dị hóa: Hai âm tố giống nhau nhưng đứng gần nhau, âm tố này làm cho âm tố kia khác với nó. Có ba địa danh thuộc kiểu này:

Bà Bèo là kinh nối sông Tiền và sông Vàm Cỏ, chảy qua các huyện Cai Lậy, Tân Phước (Tiền Giang) và Châu Thành (Long An), dài 25km. Vương Hồng Sển cho biết âm gốc của địa danh này là Bàu Bèo. Người Khmer cũng gọi kinh Bà Bèo là Cumnik Prêk Cak tức “kinh rạch bèo”.

Thứ Tư, 25 tháng 5, 2011

Hội Khai-trí Tiến-đức - Việt-Nam Tự-điển



Hội Khai Trí Tiến Đức

Việt Nam Tự Điển

Mục Lục





Muốn download Tự Điển để dùng offline quý vị bấm vào tên của mỗi chương, right click và chọn Save Target As. Quý vị cũng cần phải download chương Mục Lục. Sau khi download, quý vị phải để tất cả mọi chương trong cùng một folder [tên folder phải là tiếng Việt không dấu - Nguyễn-Tiến-Hải ghi thêm vào].Khi dùng Tự Điển offine quý vị phải mở chương Mục Lục trước tiên.Xin qúy vị thông báo qua email những sai lỗi hay trở ngại khi dùng tự điển. Cảm ơn.

Nguồn: http://www.vietnamtudien.org/vntd-kttd/

Dũng·Vũ - Tiếng Việt và vấn·đề dịch·máy


Tác·giả: Dũng Vũ

Dịch máy (machine translation) đã trở·thành một tiện·ích phổ·biến trong thời·đại internet.

Đây là một trong những đề·tài phức·tạp nhất của việc·xử·lý ngôn·ngữ con·người trong lĩnh·vực trí·thông·minh nhân·tạo (artificial intelligence) mà giới khoa·học đã miệt·mài nghiên·cứu để đạt nhiều kết·quả đáng·kể ngày·hôm·nay: tự·điển song·ngữ tự·động (Anh·Đức, Anh·Pháp, Anh·Nhật, Anh·Việt,…), dịch cụm·từ, câu (như Google Translator, Babel Fish,…). Tuy·nhiên vẫn còn nhiều khó·khăn.

Dịch máy cũng là đề·tài được giới khoa·học Việt·Nam quan·tâm và còn gặp nhiều khó·khăn hơn nữa, ít nhất vì những nguyên·nhân khách·quan sau đây:

Thứ nhất, tiếng·Việt là một ngôn·ngữ rất phức·tạp (so với ngôn·ngữ Âu·châu).

Thứ hai, dịch máy là một chủ·đề còn mới·mẻ đối·với giới ngôn·ngữ·học điện·toán Việt·Nam.

Thời·gian nghiên·cứu chưa lâu (ước khoảng một thập·niên trở·lại·đây). Thiếu nhân·sự, kỹ·thuật, kinh·nghiệm kỹ·nghệ, tài·chính,… Thậm·chí thiếu kiến·thức ngôn·ngữ·học thuần·túy và đôi·khi vẫn chưa nắm được đặc·điểm tiếng·Việt.

Bài·viết sơ·lược này sẽ chỉ·ra một·số vấn·đề dịch máy tiếng·Việt và đồng·thời gợi·ý giải·quyết. Tuy đây là một đề·tài chuyên·môn nhưng bài·viết chọn cách trình·bày bình·dân, dễ·hiểu thay·cho hình·thức một tiểu·luận khoa·học khô·khan…

Xem bài viết bằng bản PDF tại đây:
Phần 2
Phần 3
Phần 4

© 2010 Dũng Vũ
© 2010 talawas
URL nguồn: http://www.talawas.org/?p=26459


Phạm·Văn·Hải - Chữ Hán và tiếng Hán-Việt

Tên sách: Chữ Hán và tiếng Hán·Việt
Tác·giả: Phạm·Văn·Hải
Năm xuất·bản: 2005
Nơi xuất·bản: USA, Virginia, Falls Church
Số trang: 1016

Phiên·bản sách điện·tử có định·dạng file là PDF. Bạn có·thể vào xem sách online ở link sau: https://docs.google.com. Sau đó, bạn có·thể tải file sách về máy bạn từ google documents bằng cách chọn menu File => Download Original (hoặc bấm CTRL+S) trong google docs https://docs.google.com .

Mục·lục:
Lời nói đầu........................................................................xv

Chương 1: Tiếng Hán·Việt là gì?............................................1

Chương 2: Tại sao có tiếng Hán·Việt trong tiếng Việt................7

Chương 3: Cách nhận mặt tiếng Hán·Việt...............................17

Chương 4: Chữ Hán.............................................................27

Chương 5: Chữ Hán · Tìm chữ...............................................39

Chương 6: Học chữ Hán........................................................65

Chương 7: Chia loại tiếng Hán·Việt.........................................123

Chương 8: Chữ viết của người Việt · Chữ Nôm........................143

Chương 9: Nhìn lại ảnh·hưởng của Trung·Hoa trong tiếng Việt....171

Chương 10: Một số chữ Hán và tiếng Hán·Việt thường thấy........185

Tài·liệu tham·khảo............................................................... 995


Thứ Ba, 24 tháng 5, 2011

Giáo·trình Từ·vựng tiếng Việt

Tác·giả: Nguyễn·Thị·Thu·Thủy (?)
Nguồn: Thư·viện điện·tử mở của Đại·học Cần·Thơ , URL: http://www.ctu.edu.vn/coursewares/supham/tuvungtv/index.htm

Mục·lục:

Chương 1: Các đơn·vị từ·vựng tiếng Việt xét về mặt cấu·tạo

1. Các khái·niệm khác·nhau về đơn·vị cấu·tạo từ tiếng Việt
2. Các quan·niệm khác·nhau về từ tiếng Việt
3. Từ tiếng Việt và đặc·điểm của từ tiếng Việt
4. Các phương·thức cấu·tạo từ tiếng Việt
5. Các kiểu cấu·tạo từ tiếng Việt
6. Ngữ cố·định

Chương 2: Ý·nghĩa của từ
1. Hoạt·động giao·tiếp và các chức·năng cơ·bản của tín·hiệu ngôn·ngữ
2. Ý·nghĩa của từ
3. Hiện·tượng nhiều nghĩa
4. Sự·chuyển·biến ý·nghĩa của từ

Chương 3: Mối·quan·hệ ngữ·nghĩa giữa các từ trong hệ·thống

1. Hiện·tượng đồng·nghĩa
2. Hiện·tượng trái·nghĩa
3. Hiện·tượng đồng·âm
4. Các trường·hợp từ·vựng tiếng Việt

Chương 4: Các lớp từ·vựng tiếng Việt

1. Các lớp từ·vựng tiếng Việt xét về mặt phạm·vi sử·dụng
2. Các lớp từ·vựng tiếng Việt xét về mặt nguồn·gốc
3. Các lớp từ·vựng tiếng Việt xét về mặt tần·số sử·dụng

Tài·liệu tham·khảo

Chương 1: Các đơn·vị từ·vựng tiếng Việt xét về mặt cấu·tạo

1. Các khái·niệm khác·nhau về đơn·vị cấu·tạo từ tiếng Việt
2. Các quan·niệm khác·nhau về từ tiếng Việt
3. Từ tiếng Việt và đặc·điểm của từ tiếng Việt
4. Các phương·thức cấu·tạo từ tiếng Việt
5. Các kiểu cấu·tạo từ tiếng Việt
6. Ngữ cố·định





I.  CÁC KHÁI NIỆM KHÁC NHAU  VỀ ĐƠN VỊ CẤU TẠO TỪ TIẾNG VIỆT




           ( Xem bảng tổng kết các quan niệm khác nhau về hình vị tiếng Việt.)

          Tựu trung, có thể thấy có hai xu hướng xác định hình vị đối lập:

           1 Hình vị trùng âm tiết.

              Tiêu biểu gồm các tác giả như M.B.Emeneau, Nguyễn Tài Cẩn, Lưu Vân Lăng, Nguyễn Văn Tu ...Tuy nhiên, cách gọi tên không giống nhau. M.B.Emeneau, Lưu Vân Lăng  dùng thuật ngữ morphem, Nguyễn Tài Cẩn dùng khái niệm tiếng, Nguyễn văn Tu dùng từ tố, Lê Văn Lý dùng ngữ vị.

            2 Hình vị không hoàn toàn trùng âm tiết.

                ở khuynh hướng này, nội hàm và ngoại diên của hình vị cũng được nhìn nhận khác nhau.

                   - Theo Ðỗ Hữu Châu: Hình vị là những đơn vị được tạo ra từ các âm vị, tự thân có nghĩa nhưng không được dùng trực tiếp để giao tiếp, tức không trực tiếp được dùng để kết hợp với nhau tạo thành câu... Hình vị (hay yếu tố cấu tạo từ) tiếng Việt là những hình thức ngữ âm cố định, bất biến, nhỏ nhất với dạng chuẩn tối thiểu là 1 âm tiết, tự thân có nghĩa (từ vựng hay ngữ pháp), có thể chịu tác động của phương thức cấu tạo để cấu tạo từ cho tiếng Việt. [ 5, 5 ]

                   - Theo Hồ Lê: Nguyên vị là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa ngữ ngôn. Từ nguyên vị, không thể tách ra một đơn vị ngữ ngôn nào nhỏ hơn. Nói cách khác, nguyên vị không thể là kết quả của sự kết hợp của hai (hoặc nhiều) đơn vị  ngôn ngữ. Từ nguyên vị chỉ có thể tìm thấy một đơn vị ngữ âm và chỉ một mà thôi, và đơn vị ngữ âm ấy chính là bản thân nguyên vị. Trong tiếng Việt, nguyên vị thường có hình thức một âm tiết. Ví dụ: nhà, đi, đẹp, đẽ( trong đẹp đẽ), núc(trong bếp núc), ngoại, giao... Nhưng bên cạnh đó, cũng có nguyên vị có hình thức cấu tạo nhiều âm tiết. Ví dụ: ô tô, cà phê, ròng rọc, amiđan, axêtilen... [ 19, 75 ]

          - Ðái Xuân Ninh cho rằng: Hình vị tiếng Việt là yếu tố nhỏ nhất về mặt tổ chức mà có ý nghĩa: ý nghĩa từ vựng hay ý nghĩa ngữ pháp. [ 22, 7 ]. Ðứng về mặt âm tiết, có thể chia hình vị tiếng Việt ra hai loại: loại đơn âm tiết ( ăn, uống, con, cái ), loại đa âm tiết ( cà phê, rađiô, ... thằn lằn, cà cuống,...) [ 22, 21 ]



II.  CÁC QUAN NIỆM KHÁC NHAU VỀ TỪ TIẾNG VIỆT


          ( Xem bảng tổng kết các quan niệm khác nhau về từ tiếng Việt )

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

Sơ·lược về vấn·đề dịch·thuật

Tác·giả: Dũng Vũ
(Germany, Stuttgart, 13 tháng 04 năm 2004)

Là một trong những dạng sinh hoạt ngôn ngữ phức tạp, trước khi chính thức trở thành một bộ môn khoa học [1] , dịch thuật được hiểu là quá trình hoán chuyển chữ viết một văn bản từ ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ khác (s. s. Koller, 1992:80).

Riêng tại Âu châu, sinh hoạt dịch thuật đã được biết đến từ khá lâu, ví dụ dịch Kinh Thánh. Martin Luther là người nổi tiếng về công việc này và cũng là người đã góp nhiều công lao phát triển lý thuyết dịch thuật tại đây (Stedje, 1999:123).


Vào khoảng đầu thập niên 60, để định nghĩa cũng như cắt nghĩa quá trình dịch, giới ngôn ngữ học đã tiến hành những cuộc nghiên cứu về dịch thuật tự động [2] . Một lý thuyết khoa học dịch thuật đã hình thành từ đó với tiền đề: mỗi từ của một ngôn ngữ có thể được diễn tả bằng một từ, một ngữ đoạn của một ngôn ngữ khác tương ứng một trăm phần trăm.

Suy nghĩ nặng tính cách ngôn ngữ học rằng dịch thuật chỉ đơn thuần là sự chuyển tải nội dung từ một ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ dịch, cũng như việc coi trọng hình thức ngôn ngữ hơn nội dung chính là nguyên do khiến cho có nhiều văn bản không được lưu tâm đúng mức, cụ thể là những văn bản văn chương.

Nhận thức được giới hạn ấy, độc lập với dịch thuật văn chương, trong nội bộ dịch thuật khoa học đã xuất hiện một xu hướng mới: dịch thuật không còn được hiểu đơn giản là sự chuyển tải nội dung mà còn cả văn hóa. Sự đảm bảo tính giao lưu đã trở thành một điều kiện ắt có. Kết quả dịch thuật phải chứng minh được giá trị tương đương về tính giao lưu của văn bản gốc đối với văn bản dịch.

Về Nguồn - Hành-trình Việt-ngữ ABC

(phần 2 trong sách Về Nguồn)

Tác-giả: Đoàn-Xuân


Dẫn-nhập


Học tiếng Việt/Hán-Nôm sang tiếng Việt/Việt-ngữ abc, nên quan-niệm như nhà hoá-học Pháp Lavoisier (1743-1794): “Rien ne se perd, rien ne se crée, tout se transforme” (Chẳng mất mà cũng chẳng còn, chỉ biến-đổi lẫn nhau mà thôi).

Học ngôn-ngữ chia ra làm hai phần rõ-rệt để nhận-định:

- Phần hình-thức: là phần công-truyền, ai học cũng được, học để biết nói, biết đọc và biết viết. Ví-dụ: Ai cũng biết người Việt nói tiếng Việt, người Mỹ nói tiếng Anh,…nhưng khi nghe có hiểu được hay không là một chuyện khác. Nghe, sờ, thấy,… là hình-thức; hiểu là nội-dung hay ý-nghĩa, phải dùng đến lý-trí.

- Phần nội-dung: là phần ý-nghĩa của các ký-hiệu ngôn-ngữ.

Về Nguồn - Thuật nhi bất tác

(là Phần 1 trong sách Về Nguồn)

Tác-giả: Đoàn-Xuân 


(= Thuật-thuyết [bộ sước, bộ ngôn]: Ghi lại và giải-thích).

‘Khả hồ khả, (Được là được)
Bất khả hồ bất khả.’ (Không được là không được)

‘Vật cố hữu sở nhiên, (Vật, có chỗ là phải vậy)
Vật cố hữu sở khả. (Vật, có chỗ là được vậy)
Vô vật bất nhiên, (Không vật nào là không phải vậy)
Vô vật bất khả.’ (Không vật nào là không được vậy)

(Trang Tử, Nam-hoa-kinh, Tề-vật-luận).

* Những dòng chữ đang xuất-hiện trước mắt quý-vị có được sự lĩnh-hội và thực-hành của quý-vị hay không, rất ảnh-hưởng vào vận-mệnh văn-hóa Việt-nam sẽ như thế nào? Điều chắc-chắn ở đây là có hơn 99.99% người viết sách, làm thơ, soạn tự-điển (hay từ-điển) không biết dùng dấu gạch-nối sẽ chống-đối, với lý-do: ‘vạch áo cho người xem lưng’ (để lộ cái không hay cho người khác chê-cười), hay ‘chẳng ai nhận chĩnh mắm thối’.

Về Nguồn

Sách của tác-giả: Đoàn-Xuân

Khảo-sát dấu ngang-nối trong Việt-ngữ ABC


Khả dữ ngôn, nhi bất dữ chi ngôn, thất nhân;
bất khả dữ ngôn, nhi dữ chi ngôn, thất ngôn’
(Người nào mình đáng nói chuyện với người-ta mà không nói, là mất người; người nào mình không đáng nói chuyện với người ta mà nói, là mất lời. Khổng Tử, Luận Ngữ: Vệ Linh Công)

Câu-hỏi: Sự quan-trọng của dấu ngang-nối trong tiếng Việt/chữ Việt abc?

Trả-lời: Dấu ngang-nối là ký-hiệu ngôn-ngữ duy-nhất trong Việt-ngữ abc, từ sau ngày phát-minh (gần 400 năm), người họcViệt-ngữ (hơn 80 triệu) chỉ biết được phần hình-thức (= ngang ngắn giữa hai hay nhiều chữ) nhưng không-thể hiểu rõ-ràng được nội-dung của nó (= xác-định ngữ-âm [= ngữ-căn, ý-nghĩa] và ngữ-pháp [= văn-phạm] Hán-Tạng khác nghĩa với Nam-Á).

Hơn 99.99% người Việt không dốt tiếng Việt/chữ Việt abc (= biết nói, đọc, viết), họ mù (= không hiểu đúng ý-nghĩa) chữ Việt abc; chỉ có gần 0.01% kẻ hiểu tiếng Việt/Việt-ngữ abc.

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011

Đào-Duy-Anh - Hán-Việt từ-điển giản-yếu

(5000 đơn-tự, 40000 từ ngữ)

Tác-giả: Đào-Duy-Anh

Link download: https://docs.google.com (file pdf, 43 MB) (Nhà-xuất-bản Văn-hóa Thông-tin, bản mới in lại năm 2005).

Chú ý! Sau khi bạn click vào link trên, thông-báo sau đây sẽ hiện-ra: "Sorry, we are unable to scan this file for viruses. The file exceeds the maximum size that we scan. Download anyway" . Bạn hãy click vào Download anyway để tải sách về.

Link dự-phòng: http://www.mediafire.com/?ngd9nwubmuuui94

Nhà-xuất-bản: IMPRIMERIE TIENG DAN
Năm xuất-bản: 1932
Số trang: 1204
Kích-thước: 15 x 22cm
Số quyển trên/1 bộ: 1
Hình-thức bìa: Bìa cứng
Nguồn sách: Tủ-sách gia-đình Nhà-sách Sông-Hương
Đọc sách online (bản scan sách cũ in năm 1932) tại địa-chỉ: http://www.songhuong.com.vn/main.php?cid=40,3&id=27&case=2&left=40,18&gr=2#


Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2011

Sự-khác-nhau giữa "cá" và "con-cá"

Tác-giả: hinattvn

Trước hết không bàn đến “cá” trong “cá cược”, vì nó là từ cùng âm khác nghĩa.

Không chắc lắm nhưng có thể hiểu là “cá” có những điểm khác “con cá”.
“Cá” chỉ một loài động vật có xương sống ở nước, thở bằng mang, bơi bằng vây. Và “cá” này dùng với nghĩa chung chung, không cụ thể về một đơn vị nào cả.
Vd:
- Hồ này nhiều cá lắm! (c1)
- Người Việt thích ăn cá. (c2)
- Cơm cá có ngon hơn cơm rau không? (c3)
- Em ra chợ mua giùm anh 5 lạng cá bống! (c4)
- Cá này bán thế nào hả em? (c5)
Chắc là không thể thay thế từ “con cá” vào những chỗ có từ “cá” ở 5 câu trên để giữ i ý của câu.

“Con cá” cũng là nói đến 1 loài động vật là cá nhưng ý chính ở đây là chỉ cho từng đơn vị (những) cá thể động vật; tức là nó có tính chi tiết, cụ thể. Đây là 1 từ ghép, theo đúng cấu tạo ngữ pháp tiếng Việt, “con” là thành tố chính, do đó nói lên ý nghĩa chính của từ; còn “cá” chỉ là thành tố phụ, bổ trợ, làm sáng tỏ cho thành tố chính.
Vd:
- Con cá bơi qua, bơi lại nhưng không chịu đớp mồi. (c6)
- Tôi mới bắt được con cá trắm cỏ nặng cỡ 5 kí. (c7)
- Có mỗi con cá mà cũng giành nhau! (c8)
- Con cá này bán thế nào hả em? (c9)

Khả năng kết hợp từ (kết cấu từ ghép) của tiếng Việt hết sức đơn giản, dễ dàng. Cơ bản là cứ theo trật tự xuôi và có logic về nghĩa là được. Nghĩa này là sự tổng hợp từ những nghĩa của các từ thành phần. Bởi vậy mà có “con cá”, và “cá con” cũng có.
Tiếng Việt cũng lại rất linh hoạt trong khả năng chia tách từ. “Con cá” dễ dàng thành “con” + “cá”. Từ khả năng này mà người ta hoàn toàn có thể gọi tắt, rút bớt từ trong nhưng hoàn cảnh giao tiếp ngôn ngữ cụ thể. Tiếng Việt thường dùng những thành tố chính, từ có nghĩa khái quát để “thay mặt” cho cả cụm từ. Với vd “con cá”, người ta có thể dùng “con” hoặc “cá” để thay thế trong một số trường hợp.
Vd:
- Câu (c5) từ “cá” được thay cho “những con cá”
- Câu (c7) rút gọn được “con cá trắm” thành “con trắm”
- Câu (c9) rút gọn được “con cá” thành “con”

Tây họ học tiếng Việt chắc rất khó phân biệt “con cá”, “con” và “cá”.
“Con cá” là một từ ghép hoàn chỉnh, chức năng chắc cũng giống như “quyển sách”, “nhà khách”, “cây ổi”, “xe máy”,... Nhưng có điều ta khó mà tra được từ điển nào có mục “con cá” hay “cây ổi” trong khi lại có mục “nhà khách”, “xe máy”. Theo các bác thì người ta dựa vào tiêu chí gì để xếp từ vào từ điển?

Tóm lại:
“Cá”: tính khái quát, chung; chỉ loài
“Con cá”: tính đơn vị, cụ thể; nhấn mạnh đến nghĩa “con”
“Con cá” có thể được rút gọn thành “con” hoặc “cá”

Nguồn: http://ttvnol.com/tiengviet/1282637, 13:08, 02 tháng 05 năm 2011 (giờ Việt-Nam)