Tác·giả: Lê Huy Khoa
Để hiểu một hiện tượng, sự vật trong cuộc sống, cách tốt nhất chính là hiểu chính tên gọi của chính nó. Muốn hiểu rõ tên gọi của nó, thì nên phân tích từng từ ngữ cấu thành.
Với những người học tiếng Hàn, nên cần học từ Hán Việt và cả nghĩa của từ Hán trong tiếng Hàn, vì điều này cực kỳ quan trọng.
Xin giải thích các lý do như sau.
1. Từ năm 1996, tôi bắt đầu tham gia quản lý người lao động Việt Nam tại Hàn Quốc, tên công ty quản lý phía Hàn Quốc được gọi là Công ty quản lý tại chỗ tu nghiệp sinh,
trong khi tiếng Hàn thì lại là 연수생사후관리업체. Trong một lần tranh luận tại sao không tìm cách phòng chống các vấn đề trước khi người lao động về nhà máy, lại chờ cho vấn để phát sinh mới giải quyết thì viên quản lý người Hàn nhắc tôi: Cậu phải để ý đến cái chữ 사후(sự hậu- sau sự việc), hoàn toàn không phải là 사전(trước sự việc), nghĩa là chúng tôi chỉ quản lý sau khi sự việc phát sinh, sau này các từ như 연수생, 3D 업종, vv.. cũng đã nói đến bản chất của sự việc.
trong khi tiếng Hàn thì lại là 연수생사후관리업체. Trong một lần tranh luận tại sao không tìm cách phòng chống các vấn đề trước khi người lao động về nhà máy, lại chờ cho vấn để phát sinh mới giải quyết thì viên quản lý người Hàn nhắc tôi: Cậu phải để ý đến cái chữ 사후(sự hậu- sau sự việc), hoàn toàn không phải là 사전(trước sự việc), nghĩa là chúng tôi chỉ quản lý sau khi sự việc phát sinh, sau này các từ như 연수생, 3D 업종, vv.. cũng đã nói đến bản chất của sự việc.
2. Do nhiều người không học âm Hán Việt nên đã dịch sai khá nhiều từ hiện nay: Chữ Hàn trong Hàn Quốc khác với chứ hàn là lạnh, Hàn Quốc không liên quan gì đến lạnh cả. Con sông chảy qua Seul là sông Hán (con sông lớn), không phải sông Hàn, 선배 có âm Hán là tiên bối (người đi trước, bậc đàn anh), tất nhiên cũng có thể dùng để hiểu thay cho chữ tiền bối.
3. Người Việt chúng ta nói là Cúm gia cầm, nhưng người Hàn lại nói là 조류독감(điểu loại độc cảm), cúm các loài chim, có thể họ chính xác hơn chúng ta. Nhiều người biết hoa Mucung (무궁) là quốc hoa tượng trưng cho sự trường tồn của người Hàn Quốc, lý do là vì nghĩa thực của nó là vô cùng (vô tận). Nhiều người vẫn biết Korea nhưng không hiểu có tên gọi khác là Cao Ly, Korea tiếng Hàn là 고려, âm hán của từ này là Cao ly (sâm Cao ly, nhất Cao Ly nhì Nam Việt).
4. Có người vẫn hiểu Xin chào (chào anh chị) là Anniong haxeio 안녕하세요, tuy nhiên, ý nghĩa của nó lại là chúc anh chị mạnh khỏe, vì từ anniong có nghĩa là bình an. Tương tự với từ 안녕히 계(가)세요: chúng ta cứ hiểu là tạm biệt (thực ra là chúc anh ở lại bình an, chúc anh đi bình an).
5. Do đặc tính tiếng Hàn là ngôn ngữ chắp dính, vì vậy nếu bạn chỉ cần biết âm Hán Việt thì sẽ tạo ra từ mới rất dễ: Ví du; Tất cả những từ nào có chữ 식(thực = ăn) đều mang nghĩa liên quan đến ăn; 잡식(tạp thực- ăn tạp), 육식(nhục thit- ăn thịt), 초식(thảo thực- ăn cỏ), không cần phải tra từ điển vẫn đoán được nghĩa.
6. Rất nhiều học giả, tài liệu nghiên cứu nói 관용어 (quán dụng ngữ) là thành ngữ, tục ngữ, không đúng lắm, nó là những từ ngữ sử dụng theo thói quen nhiều, ví dụ như: nặng mông (엉덩이 무겁다), miệng nhẹ (입이 가볍다), tiếng Việt thì có To mồm, già mồm vv..
7. Nhiều bộ phim, chúng ta vẫn dịch chủ đề chưa chính xác lắm, ví dụ phim Thương gia, tuy nhiên tên phim là 상도 (thương đạo), có nghĩa là đạo đức thương gia, buôn bán, hoặc Chuyện tình vượt thời gian đúng ra sẽ là Mối tình ngàn năm vì nguyên đề của nó là 천년지애 (thiên niên chi ái).
8. Ta không thể phân biệt được 명월 và 월명 nếu không biết âm Hán Việt và cấu trúc chính phụ của kết cấu loại từ này: Minh nguyệt (trăng sáng) và Nguyệt minh (ánh sáng của trăng).
9. Nhiều người vẫn chỉ biết công ty nổi tiếng Hàn Quốc là Samsung, Huyndea, nhưng không biết âm và nghĩa của nó là Tam tinh (ba ngôi sao) và Hiện đại. Tương tự, có tờ báo rất mâu thuẫn khi đưa tin về Bắc Hàn lại viết “ Tượng của cố Chủ tịch Triều Tiên Kim Nhật Thành và Kim Jung Il”.
10. Người Hàn Quốc không gọi là người tàn tật, họ gọi là người các chức năng hoạt động bị trở ngại (장애인), họ không gọi là quái thai mà gọi là kỳ hình ni (기형아), tủ lạnh thì gọi là cái kho chứa lạnh 냉장고( lãnh tàng khố), không biết Âm Hán thì không thể dịch chính xác các loại thảo dược, y học, pháp luật, tôn giáo hay ngũ hành, thiên can địa chi, các sự kiện 임진왜란 không bao giờ được hiểu chính xác (nhâm thìn oa loạn= cái loạn của người Nhật bản gây ra cho Hàn Quốc năm Nhâm thìn).
Và hàng ngàn vạn từ vựng khác nữa, học cách này sẽ giúp bạn giải thích ý nghĩa của từ vựng, sự việc một cách cực kỳ chính xác mà không mất thời gian.
Học ở Hàn Quốc thì lại càng không bao giờ học cái này, vì không học phương pháp đối chiếu so sánh.
Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý khoảng 1% từ gốc Hàn sang Hàn Quốc đã được bản địa hóa và thành từ tiếng Hán Hàn rất đặc biệt. Và từ gốc Hán trong tiếng Hàn ít nhiều cũng sử dụng khác với từ gốc Hán trong tiếng Việt.
Hiện tại, hình như không có trường chú ý và thực hiện dạy âm Hán Việt trong tiếng Hàn, sẽ rất tiếc nếu như bỏ qua điều này. Hiện tại, tiếng Nhật cũng có nơi đào tạo nhưng vẫn chưa đầy đủ và hoàn toàn hệ thống hóa.
Tổng kết chơi chia sẻ một cách học hiệu quả với mọi người chút vậy thôi.
Nguồn: Le Huy Khoa Kanata, 2014-08-06
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét