(Khoa Ngôn·ngữ·học, Trường Đại·học KHXH&NV, Đại·học Quốc·gia Hà·Nội)
Kỷ·yếu hội·thảo Nghiên·cứu và đào·tạo khoa·học xã·hội và nhân·văn ở Việt·Nam thành·tựu và kinh·nghiệm, năm 2010
Một trong những lí do gây nên cảnh "phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam" là cách xác định đơn vị cơ bản của tiếng Việt chưa thống nhất. Sau 65 năm nhìn lại, chúng tôi rút ra một số nhận xét chính như sau:
1. Cách xác định thế nào là "có nghĩa"chưa thống nhất
Khi xác định từ và hình vị tiếng Việt, nhà Việt ngữ học nào cũng nêu tiêu chuẩn phải "có nghĩa", nhưng không mấy ai nói rõ thế nào là "có nghĩa". Có lẽ chỉ Nguyễn Kim Thản, Đỗ Hữu Châu và Nguyễn Tài Cẩn trực tiếp hoặc gián tiếp bàn đến vấn đề này. Nguyễn Kim Thản không trực tiếp giải thích thế nào là "có nghĩa", nhưng khi nói về tính hoàn chỉnh về nghĩa của từ, ông viết: "cà chua định tên cho một đối tượng khách quan duy nhất: một thứ quả thuộc họ cà, khi chín thì đỏ, dùng để làm thức ăn. Máy nổ cũng định tên cho một công cụ duy nhất chạy bằng hơi đốt. Xe bò chỉ một vật thể duy nhất, một thứ công cụ vận tải, đóng bằng gỗ, có hai bánh, hai càng; cho nên biểu thị một ý nghĩa ngữ pháp duy nhất là kết quả và làm từ liên lạc giữa đoạn câu nguyên nhân và đoạn câu kết quả". Qua cách phân loại hình vị về mặt ý nghĩa của Đỗ Hữu Châu, chúng ta có thể hiểu quan niệm của ông về "có nghĩa"là thế nào. Ông viết: "Hình vị thực như nhà, áo, xe, máy, đường, trời, nước, sơn (núi), thủy, hỏa tức là những hình vị mà ý nghĩa của chúng liên hệ với những sự vật, hiện tượng có thể hình dung được hay nhận thức được một cách cụ thể. Hình vị hư như nhưng, rất, đã, sẽ, đang, nếu, thì, mà,…là những hình vị mà ý nghĩa thường chỉ quan hệ hoặc hình thái – tức những biểu hiện của sự vật, hiện tượng hoặc chỉ cách nói năng (các hành vi ngôn ngữ), chỉ quan hệ giao tiếp – hết sức chung và trừu tượng".
Diễn giải về nghĩa như trên không sai, nhưng nếu căn cứu vào đó để nhận diện từ hoặc hình vị thì không phải bao giờ cũng làm được. Khi tiếp xúc với các từ ngữ nghề nghiệp và đặc biệt là các thuật ngữ chuyên môn xa lạ đối với mình, chúng ta sẽ gặp hàng loạt từ mà ta không biết nghĩa. Những tiếng Hán Việt vốn có nghĩa, nhưng đối với những người không có kiến thức Hán học thì việc nhận thức nghĩa của chúng không phải là chuyện dễ dàng.
Ý thức được những khó khăn này, Nguyễn Tài Cẩn đã xác định ý nghĩa một cách khác. Theo ông, "tiếng có nghĩa phải là loại tiếng xuất hiện lặp đi lặp lại nhiều lần ở trong nhiều tổ hợp khác nhau". Ông viết:
"a) Tiếng có nghĩa là loại tiếng có thể làm thành tố của từ hai tổ hợp trở lên.
b) Tiếng vô nghĩa là loại tiếng chỉ xuất hiện trong một tổ hợp duy nhất (a trong a-xit và a trong a-pa-tit phải được xem như là những tiếng khác nhau về mặt ngữ pháp)".
Rõ ràng, cách làm của Nguyễn Tài Cẩn khách quan, khoa học hơn. Tuy nhiên, do máy móc áp dụng tiêu chuẩn này nên Nguyễn Tài Cẩn đã coi những tiếng như dãi trong dễ dãi, cộ trong xe cộ là những tiếng vô nghĩa.
Những người chủ trương trong tiếng Việt có hình vị nhỏ hơn âm tiết đã dựa vào sự lặp lại của bộ phận nào đó của âm tiết. Như ta biết, âm tiết của tiếng Việt tương đương với âm vị của các ngôn ngữ Ấn Âu. Do đó, âm tố hay yếu tố ngữ âm nhỏ hơn âm tiết trong tiếng Việt không thể có được tư cách là đơn vị ngữ âm độc lập bên ngoài âm tiết. Nếu như trong các ngôn ngữ Ấn Âu, âm vị có thể tự thân dùng làm đơn vị mang nghĩa, chẳng hạn, и "và", в "ở, trong", к "về phía, tới", с "từ"của tiếng Nga, thì trong tiếng Việt, bộ phân âm tiết không thể ngữ nghĩa hóa một cách độc lập. Những từ tiếng Việt như: u, ư, e, ê thoạt nhìn tưởng như có hình thức của một âm vị, nhưng kì thực đó là những âm tiết mang thanh điệu nhất định. Không chú ý đến những đặc điểm trên đây của tiếng Việt, một số nhà nghiên cứu cố vạch đường ranh giới hình vị đi qua âm tiết, do đó không tránh khỏi những mâu thuẫn nội tại và còn kéo theo nhiều điều tắc rối, phức tạp, không cần thiết.
2. Cách xác định từ chưa nhất quán, chưa hợp lí, chưa phù hợp với thực tế
Trừ một số tác giả như Emeneau, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp, còn hầu hết các nhà Việt ngữ học khi xác định từ đều có chỗ chưa nhất quán, chưa hợp lí, chưa phù hợp với thực tế.
Tính chất chưa nhất quán, chưa hợp lí, chưa phù hợp với thực tế trong việc xác định từ tiếng Việt thể hiện ở những điểm sau đây:
1. Trong định nghĩa về từ tiếng Việt, từ Lê Văn Lý đến Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê, Hoàng Tuệ, Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Văn Tu, Đỗ Hữu Châu, Hồ Lê, … đều đề cập tới tiêu chuẩn ngữ âm, thậm chí cả tiêu chuẩn chữ viết, nhưng trong thực tế xác định từ tiếng Việt lại chỉ chú ý đến đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp. Những đơn vị được các ông coi là từ của tiếng Việt đều có thể là đơn tiết cũng như đa tiết, viết liền cũng như viết rời.
Biện minh cho tính hoàn chỉnh về ngữ âm của từ, Nguyễn Kim Thản viết: "Không phải là trong tiếng Việt không tìm ra được những dấu hiệu thể hiện sự hoàn chỉnh về ngữ âm của từ. (…) có rất nhiều từ thuần và từ ghép trong tiếng Việt cấu tạo rất chặt chẽ, thành một khối hoàn chỉnh về ngữ âm, và chịu sự chi phối của những quy luật ngữ âm nhất định, như đồng hóa, dị hóa, gộp âm v.v.". Nói đến từ ngữ âm là nói đến những đặc điểm ngữ âm có thể giúp vào việc phân định và tách một từ ra khỏi từ bên cạnh, chăng hạn như trong tiếng Nga, mỗi từ có một trọng âm. Những điều mà Nguyễn Kim Thản nói chỉ chứng minh tính hoàn chỉnh của các từ ghép, nó chẳng có điểm gì chung với các từ đơn.
Vì thấy việc công nhận những khối viết rời là từ là vi phạm tiêu chuẩn tính hoàn chỉnh về chữ viết nên một số tác giả đã nêu ý kiến các từ ghép nên viết liền thành một khối, chẳng hạn, xã hội → xãhội, xe đạp → xeđạp, v.v.; hoặc dùng dấu gạch nối giữ các tiếng như: động từ
→ động – từ, trực tiếp → trực – tiếp, nhà quê → nhà –quê,… Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng những đề xuất ấy vẫn chưa được xã hội chấp nhận.
→ động – từ, trực tiếp → trực – tiếp, nhà quê → nhà –quê,… Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng những đề xuất ấy vẫn chưa được xã hội chấp nhận.
Không đếm xỉa tới đặc trưng ngữ âm và chữ viết của từ, những đơn vị được coi là từ của tiếng Việt, thực chất chỉ đáp ứng tiêu chuẩn từ từ điển học mà thôi. Như thế, các nhà nghiên cứu đã phiến diện trong việc xác định từ trong khi tuyên bố theo quan điểm toàn diện, nhiều mặt.
2. Trừ Nguyễn Tài Cẩn là người coi "tiếng"là đơn vị gốc của ngữ pháp tiếng Việt, ông bắt đầu miêu tả ngữ pháp tiếng Việt từ cái đơn vị gọi là tiếng là hợp lí. Những tác giả khác đều coi từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, hình vị (còn được gọi là ngữ tố, nguyên vị, từ tố,…) chỉ là đơn vị cấu tạo từ đơn vị không độc lập về cú pháp; ấy thế nhưng họ cũng bắt đầu miêu tả từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt bằng việc xác định hình vị. Như thế là chưa hợp lí, chưa nhất quán với quan niệm của mình.
Theo Nguyễn Kim Thản, "từ là những đơn vị vật liệu sẵn có trong ngôn ngữ, là những đơn vị hiện thực nhất", "trong các đơn vị của ngôn ngữ, từ là đơn vị cơ bản". Đã thừa nhận từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ thì khi miêu tả từ vựng và ngữ pháp của ngôn ngữ phải xác định từ đầu tiên. Trên cơ sở các từ mới tiếp tục phân tích để xác định đơn vị cấu tạo nên nó là hình vị. Nhiều nhà Việt ngữ học đã đi theo con đường ngược lại: trước hết xác định đơn vị nhỏ nhất có nghĩa mà họ gọi là nguyên vị, ngữ tố hay từ tố; rồi mới miêu tả những cách thức kết hợp những đơn vị ấy thành từ.
Theo Đỗ Hữu Châu, 'phương thức tạo từ là cách thức mà ngôn ngữ tác động vào hình vị để cho ta các từ. Tiếng Việt sử dụng ba phương thức sau đây: từ hóa hình vị, ghép hình vị và láy hình vị". Ông nhấn mạnh chức năng cấu tạo từ của hình vị: "Hình vị là những yếu tố nhỏ nhất có thể di vào trong ba phương thức tạo từ để cho các từ của tiếng Việt".
Trước hết, muốn coi một yếu tố nào đó là hình vị thì phải chứng minh yếu tố đó có nghĩa và những tổ hợp mà chúng tham gia cấu tạo là từ. Đỗ Hữu Châu chưa chúng minh các tổ hợp mà một yếu tố tham gia cấu tạo là từ nên không thể coi yếu tố ấy là hình vị.
Thứ hai, Đỗ Hữu Châu chưa chứng minh ghép và láy là phương thức cấu tạo của riêng từ nên cũng không thể coi những yếu tố có thể đi vào những phương thức đó là hình vị.
Cuối cùng, đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ kết hợp lại với nhau (theo phương thức ghép hoặc láy) có thể tạo thành từ mà cũng có thể tạo thành cụm từ và câu.
Vì những lẽ trên, cách lập luận của Đỗ Hữu Châu khó mà chấp nhận được.
3. Miêu tả khách quan, khoa học đòi hỏi nêu tiêu chuẩn về từ trước, sau đó kiểm nghiệm các hiện tượng ngôn ngữ trong tiếng Việt, hiện tượng nào thỏa mãn tiêu chuẩn về từ thì coi là từ. Nhiều nhà Việt ngữ học định trước đơn vị nào đó là từ, rồi mới đi tìm cách những chứng minh bằng cách viện dẫn lí luận này lí luận kia trong ngôn ngữ học.
Trong việc định trước tổ hợp nào đó là từ không phải không có sự so sánh với từ của ngoại ngữ. Thí dụ:
Tiếng Việt | Tiếng Pháp |
dân chủ | démocratie |
tập trung | centralisation |
tổ chức | organisation |
hiện đại hóa | moderniser |
xe đạp | bicyclette |
xe đạp máy | cyclomoteur |
đã đọc | lisais |
dân số | population |
Tiếng Việt | Tiếng Anh |
chim sáo | blackbird |
phòng học | classroom |
giá sách | bookcase |
máy bay | aeroplane |
máy chữ | typewriter |
Tiếng Việt | Tiếng Nga |
nông trang tập thể | колхоз |
đoàn thanh niên cộng sản | комсомол |
1.Một số nhà Việt ngữ học xác định hình vị với tư cách là một cấp độ dưới từ một cách trừu tượng, không phù hợp với thực tiến.
Trần Ngọc Thêm viết: "Hiện nay, quan niệm "từ cấu tạo từ hai hình vị trở lên" đã trở thành một định kiến nặng nề tới mức nhiều nhà nghiên cứu thường quên rằng chính họ vẫn nó là câu "Mưa" về hình thức trùng với từ, hình vị và âm tiết "mưa". Sự khác biệt giữa các cấp độ ở đây không phải là về số lượng, mà là một sự khác biệt về chất – điều mà Reformatskij đã từng nhấn mạnh. Sự khác biệt về chất giữa âm tiết và hình vị là nghĩa, giữa hình vị và từ là tính độc lập về cú pháp, giưa từ và câu là ngữ điệu và tình huống. Cả việc không thừa nhận hình vị "mưa" theo Boduen lẫn cách nó "mưa vừa là từ vừa là hình vị"theo Bloomfield đều là hậu quả của việc bỏ qua sự khác biệt này". Ông dùng kí hiệu {…} để chỉ hình vị, [ … ] để chỉ âm, "…"để chỉ nghĩa, chữ cái hoa và dấu chấm để chỉ câu và phân biệt các cấp độ như sau:
[mưa] + "mưa"→ {mưa}
{mưa} + tính độc lập cú pháp → "mưa"
"mưa"+ ngữ điệu, tình huống → Mưa.
Hồ Lê không phân biệt 4 cấp độ như Trần Ngọc Thêm mà phân ra những 5 cấp độ là: âm vị, âm tiết, nguyên vị, từ và câu. Ông viết: "Cấp độ -tôn ti của các đơn vị cấu trúc ngôn ngữ không phụ thuộc vào lịch sử hình thành của đơn vị ngôn ngữ. Thí dụ: Trong thực tế, từ ra đời trước nguyên vị, nhưng trong hệ thống của cấp độ - tôn ti thì nguyên vị là đơn vị cấu trúc bậc thấp để từ đó cấu tạo nên từ là đơn vị cấu trúc bậc cao. Nó cũng không phụ thuộc vào một quan điểm phân tích ngôn ngữ nào đó mà tạm thời được một thực tế cục bộ hậu thuẫn. Ví dụ: "Mưa!"có thể phân tích thành: câu "mưa"→ từ "mưa"→ các âm vị /m/ /ш/ /a/. Song trong hệ thống cấp độ - tôn ti thì giữa từ "mưa"và các âm vị /m/ /ш/ /a/, còn có hai loại đơn vị: nguyên vị "mưa"và âm tiết "mưa". Tóm lại, các loại đơn vị chuẩn trong hệ thống ngôn ngữ phải được xác định theo phương pháp cấp độ - tôn ti"
Như ta biết, sự khác nhau giữa các cấp bậc là sự khác nhau về chất, tức là sự khác nhau về chức năng. Người ta thường phân biệt 4 bậc là âm vị, hình vị, từ và câu: âm vị có chức năng nhận cảm và chức năng phân biệt nghĩa; chức năng của hình vị là chức năng ngữ nghĩa; từ có chức năng gọi tên và chức năng ngữ nghĩa; còn câu thì có chức năng thông báo. F. de Saussure đã phân biệt hình thức và chất liệu. Âm tiết thuộc về chất liệu nên trong ngôn ngữ học không ai coi nó là một cấp độ dưới từ.
Quan hệ giữa các cấp bậc là quan hệ hai chiều: đơn vị bậc thấp "nằm trong"đơn vị bậc cao, ngược lại, đơn vị bậc cao "bao gồm"đơn vị bậc thấp. chứ không chỉ theo một chiều từ thấp lên cao như Hồ Lê nói. Nói đơn vị bậc cao bao gồm các đơn vị bậc dưới không có nghĩa là từ bắt buộc phải gồm hai hình vị trở lên; Nói câu "Mưa!"chỉ gồm một từ không có nghĩa là "mưa"vừa là từ vừa là câu". Người nào diễn đạt "từ cấu tạo từ hai hình vị trở lên", "mưa vừa là từ vừa là hình vị"như Trần Ngọc Thêm đã nêu là chưa hiểu bản chất của vấn đề.
Không nên lẫn lộn lí luận về cấp bậc với việc nhận diện các đơn vị thuộc các bậc. Xác lập hình vị chỉ dựa vào sự hậu thuẫn tạm thời của một thực tế cục bộ như Hồ Lê đã làm là không thực tế. Chính Hồ Lê cũng nhận thấy: "Ngay từ buổi đầu hình thành ngôn ngữ, con người đã phát ra những tín hiệu – câu. Lúc đầu, chính từ được sinh ra cùng một lúc với câu. Sau đó, đến một giai đoạn nhất định, xã hội mới biết cách dùng nhiều từ kết hợp lại thành câu. Quan hệ giữa hình vị và từ cũng không phải một chiều. Lúc đầu, không phải con người có ngay một "kho"hình vị để cấu tạo từ. Trái lại, lúc ban đầu, xã hội biết từ trước khi biết hình vị. Đến một giai đoạn phát triển nhất định, xã hội mới biết phân xuất hình vị từ từ và sau đó mới sử dụng hình vị để tạo ra từ mới".
Với lí luận của Trần Ngọc Thêm, Hồ Lê và Đỗ Hữu Châu về hình vị thì đứng trước một từ như "mưa", ta phải hình dung trước đó có một hình vị "mưa", rồi hình vị "mưa"mới đi vào phương thức từ hóa để trở thành từ "mưa"như cách lập luận của Đỗ Hữu Châu, hoặc hình vị "học"kết hợp với tính độc lập cú pháp để trở thành từ "học"như lập luận của Trần Ngọc Thêm. Lập luận đó thật siêu hình, không phù hợp với thực tế. Các ông Hồ Lê, Trần Ngọc Thêm nhận diện từ và hình vị một cách riêng rẽ (ở từng cấp độ) và chỉ ở bình diện trừu tượng. Vấn đề nhận diện từ và hình vị không thể thực hiện riêng rẽ, không tính đến mối liên hệ với những đơn vị bậc thấp hơn và bậc cao hơn đồng thời, cũng không thể tiến hành bằng những diễn dịch trừu tượng không trên cơ sở thực tế. Trong thực tế, các tiếng như nhà, đá, ăn, học, đẹp,… hoạt động trước hết như các từ. Những cấu tạo như nhà đá, học phí, cây cối, xinh đẹp, đẹp đẽ,… là những sản phẩm hậu kì. Không ai thấy có quá trình từ hóa nào cả, có chăng chỉ là quá trình giảm dần tính chất từ, tăng cường tính chất hình vị của những tiếng đó mà thôi.
Tuy quan niệm về hình vị tiếng Việt giống với Trần Ngọc Thêm nhưng V.M. Solncev tôn trọng thực tế trong việc nhận diện hình vị. Ông coi hình vị là kết quả của sự phân xuất cái đơn vị được coi là từ mà có được. Rõ ràng, đẹp trước hết, hiển nhiên là một từ, khi sử dụng nó trong tổ hợp tốt đẹp, nó mang phẩm chất của một hình vị. Ông viết: "Các đơn vị ghép là các từ ghép và phái sinh. Các đơn vị đơn trong cấu tạo của đơn vị ghép đã mất tính độc lập cú pháp, đó là các hình vị". Cách làm của V.M. Solncev là phù hợp với thực tế. Vấn đề cần bàn thêm là ở chỗ: đúng là các đơn vị đơn trong cấu tạo của đơn vị ghép đã mất tính độc lập cú pháp, nhưng đã đến mức trở thành hình vị hay chưa?
3. Hệ quả: một bức tranh không rõ ràng và đầy mâu thuẫn
1. Tuyên bố hình vị phải có nghĩa nhưng vẫn coi những tiếng vô nghĩa là hình vị! Nguyễn Tài Cẩn coi tiếng là đơn vị cơ sở của ngữ pháp tiếng Việt, trong đó có một loại ông coi là vô nghĩa, thí dụ: dãi trong dễ dãi, cộ trong xe cộ, bù và nhìn trong bù nhìn, a và xít trong a xít,…Lưu Vân Lăng cũng coi tiếng là đơn vị cơ sở của ngữ pháp tiếng Việt, trong đó bao gồm cả những tiếng mà ông coi là vô nghĩa, ví dụ: gàng trong gọn gàng, ni và lông trong ni lông,…; Trong ba loại hình vị của Đỗ Hữu Châu cũng có một loại là "hình vị không có nghĩa", thí dụ: bươu trong ốc bươu, hâu trong diều hâu, xít trong bọ xít, nẹt trong bọ nẹt, róm trong sâu róm, dàng trong dễ dàng, lúng trong lúng túng,…; Hồ Lê cũng coi những tiếng như qué trong gà qué, pheo trong tre pheo, và những tiếng vô nghĩa trong từ phiên âm như cà và phê trong cà phê, … là những nguyên vị.
2. Cách biện minh cho điều phi lí trên – hình vị mà lại vô nghĩa – của các tác giả chưa hợp lí:
- Đỗ Hữu Châu, Hồ Lê đã lấy lịch đại để giải thích đồng đại. Hồ Lê gọi nghĩa của cúi trong heo cúi, pheo trong tre pheo, qué trong gà qué,… là nghĩa cổ (!) và được coi là nguyên vị. Những tiếng như bươu, hâu, róm, … hiện nay Đỗ Hữu Châu xếp vào loại không có nghĩa, nhưng ông vẫn coi là hình vị vì ông giả định trong quá khứ chúng có ý nghĩa. Theo ông, cà trong cà lăm, cà lắp là kết quả của sự âm tiết hóa phụ âm /k/ trong phụ âm kép cổ /kl/ . Từ một phụ âm vô nghĩa biến thành một âm tiết vô nghĩa thì làm sao có thể dẫn đến kết luận thế này được: "Như vậy, hoàn toàn có lí do để cho rằng những yếu tố hiện nay không có nghĩa trong các từ đã dẫn cũng là hình vị đúng theo định nghĩa, có điều chúng đã biến đổi do tác động của những quy luật khác của tiếng Việt, song không phải quy luật cấu tạo từ".
- Đỗ Hữu Châu còn dựa vào mô hình cấu tạo để biện minh cho tiếng vô nghĩa. Ông giải thích như sau: "mặc dù chúng không có nghĩa trong trạng thái tiếng Việt hiện nay, song những từ chứa chúng lại nằm trong cùng một kiểu cấu tạo với những từ do hai hình vị tự thân có nghia tạo nên". Rất tiếc là trước đó ông chưa chúng minh các tổ hợp tiếng là từ.
- Hồ Lê còn giải thích nghĩa theo từ nguyên học dân gian, ví dụ: cà trong cà phê được hiểu như từ cà đồng âm thuần Việt.
- Nhất quán hơn cả là Nguyễn Tài Cẩn. Để có thể coi những tiếng vô nghĩa là hình vị, ông thay đổi định nghĩa về hình vị. Ông viết: "Hình vị là đơn vị nhỏ nhất, đơn giản nhất về mặt tổ chức mà lại có giá trị về mặt ngữ pháp". Mặc dù cũng biết đến những liên tố như -о- ở trong từ паровоз "đầu máy xe lửa"của tiếng Nga (пар = hơi nước; Воз = kéo; о = hình vị chỉ có tác dụng nối hình vị пар với hình vị Воз) , nhưng các nhà ngôn ngữ học vẫn định nghĩa hình vị là "đơn vị nhỏ nhất mà có ý nghĩa", bởi vì số lượng các hình vị nối rất ít (trong tiếng Nga có hai liên tố là /o/ và /e/). Thay đổi định nghĩa về hình vị để mở đường cho việc chấp nhận tất cả những âm tiết vô nghĩa trong các từ phiên âm tiếng nước ngoài như may ô, ô tô, pê ni xi lin, ki lô, v.v.. cũng là hình vị như Nguyễn Tài Cẩn đã làm có phần khiên cưỡng.
3. Cùng một tiếng duy nhất, khi thì coi là từ, khi thì coi là hình vị. Thí dụ: bạc trong "cha mẹ thói đời ăn ở bạc"là từ, nhưng cũng từ ấy trong bạc phận, bạc đức, bạc màu,… lại được coi là hình vị; bay trong chim bay là một từ , nhưng bay trong máy bay lại là hình vị; đả trong đả đảo, đả phá,… là hình vị , nhưng đả trong "phải đả nó một trận"lại là từ; gia trong gia đình, gia tộc, quốc gia,… được coi là hình vị, nhưng gia trong "Ấp ấy có 30 nóc gia" lại là một từ; lộ trong quốc lộ, xa lộ, lộ trình,... được coi là hình vị, nhưng cũng tiếng ấy trong "Lộ ấy, giặc hay kích lắm"lại là một từ, v.v.. Theo tài liệu của chúng tôi, 63% tổng số tiếng trong tiếng Việt là như vậy. Như ta biết, hình vị không thay đổi giá trị nghĩa trong quá trình sử dụng, còn từ thì có thể thay đổi giá trị nghĩa trong quá trình sử dụng. Vì thế, đứng trước hiện tượng cùng một tiếng có thể thay đổi cách sử dụng, tuy có biến đổi nghĩa nhưng vẫn liên hệ chặt chẽ với nghĩa gốc thì vẫn nên coi đó là một từ. Làm như vậy sẽ tránh được giải pháp "đồng âm, cùng gốc, khác bậc"xa lạ với lí luận ngôn ngữ học. Chẳng hạn, học là một từ, nó có thể trục tiếp cấu tạo câu nói như: Tôi học bài, Tôi đi học,…; nhưng cũng có thể kết hợp với các từ khác để cấu tạo những đơn vị từ vựng mới, ví dụ: học bạ, học phí, văn học,… Đây là một hiện tượng rất bình thường trong tất cả các ngôn ngữ.
4. Những tổ hợp tiếng cùng có tính cố định và tính thành ngữ như nhau, nhưng tổ hợp này thì coi là từ ghép, tổ hợp khia lại được coi là thành ngữ hoặc cụm từ cố định.
Từ ghép | Ngữ cố định |
bạn đọc | bạn nối khố |
mắt bão | mắt lá răm |
mặt bằng | mặt như chàm |
thẳng cánh | thẳng ruột ngựa |
dai sức | dai như đỉa |
chạy làng | chạy ong tóc gáy |
ra mặt | ra ngô ra khoai |
trẻ măng | trẻ như măng |
ngang ngạnh | ngang càng bứa |
Cùng chứa những tiếng không hoạt động tự do, nhưng tổ hợp này thì coi là từ, tổ hợp kia lại coi là thành ngữ:
Từ ghép | Thành ngữ |
lang bạt | lang bạt kì hồ |
du kích | du thủ du thực |
thiên địa | thiên la địa võng |
dĩ nhiên | dĩ thực vi tiên |
sơn hà | hằng hà sa số |
viễn thị | kính nhi viễn chi |
tử sinh | thập tử nhất sinh |
sơn cước | sơn hào hải vị |
oan trái | tiền oan túc trái |
Những tiếng không hoạt động tự do được coi là các hình vị, trong khi những tổ hợp tiếng cũng không hoạt động tự do lại được coi là các từ. Thí dụ:
ác chiến (thường dùng sau danh từ). Trận ác chiến.
an thần (kết hợp hạn chế). Thuốc an thần.
ái quốc (dùng phụ sau danh từ). Nhà ái quốc. Tinh thần ái quốc.
ái hữu (dùng trong tên gọi của một số tổ chức). Hội ái hữu.
âm tính (kết hợp hạn chế). Không có, không xẩy ra hiện tượng nói
đến nào đó, đối lập với dương tính. Kết quả âm tính.
bạc má (dùng trong tên gọi một số loài động vật). Khướu bạc má; Cầy bạc má; Cá bạc má.
bách chiến (thường dùng phụ sau danh từ). Trải qua nhiều trận đánh,
dày dạn trong chiến đấu. Con ngựa bách chiến.
bách hóa (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Các thứ hàng tiêu
dùng (nói tổng quát). Bán bách hóa. Người kinh doanh bách hóa.
bách khoa (dùng phụ sau danh từ). Các bộ môn, các ngành khoa
học và kĩ thuật (nói tổng quát). Kiến thức bách khoa. Từ điển bách khoa.Trường Đại học Bách khoa.
bách phân (dùng phụ sau danh từ). Nhiệt giai bách phân. Tỉ lệ bách phân.
bán nguyệt (dùng phụ sau danh từ). Hình bán nguyệt.
bán sơn địa (thường dùng phụ sau danh từ). Nửa núi nửa đồng
bằng. Vùng bán sơn địa.
bán thân (dùng phụ sau danh từ).Tượng bán thân. Ảnh chụp bán thân.
bảo sanh (kết hợp hạn chế). Nhà bảo sanh.
biên phòng (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Đồn biên phòng. Công an biên phòng
- Miêu tả hình vị bằng từ loại, quan hệ trong từ bằng quan hệ cú phápNhư ta biết, hình vị thường được chia ra thành hình vị cấu tạo từ và vĩ tố; hình vị cấu tạo từ gồm chính tố (từ căn) và phụ tố; phụ tố lại chia ra tiền tố, hậu tố, trung tố và liên tố. Các hình vị ở trong từ có quan hệ với nhau về nghĩa nhưng không có quan hệ cú pháp. Chỉ các từ mới được phân ra các từ loại và quan hệ giữa các từ là quan hệ cú pháp. Ấy thế nhưng nhưng người chấp nhận trong tiếng Việt có từ ghép lại dán nhãn từ loại cho thành tố của từ ghép và miêu tả quan hệ giữa các thành tố trong từ ghép bằng quan hệ cú pháp.
- Những từ cấu tạo theo quan hệ đẳng lập, ví dụ: xe cộ, áo xống, báo chí, hỏi han, tuổi tác,…
- Những từ cấu tạo theo quan hệ chính phụ, ví dụ: ái quốc, thanh danh, cao điểm, văn học, xe đạp,…
- Những từ cấu tạo theo quan hệ chủ vị, ví dụ: nhân tạo, thiên tạo, gà gáy, dân chủ,…Có người còn chia nhỏ quan hệ chính phụ thành:
- Quan hệ hạn định, ví dụ: học trò, hải quân, bệnh viện,…
- Quan hệ động bổ, ví dụ: vệ sinh, phòng bệnh, cứu thương,…
- Quan hệ động trạng, ví dụ: cải tiến, đả đảo, lạc hậu,…Có người phân loại chi tiết hơn quan hệ chính phụ như sau:
- danh từ + danh từ: gấu ngựa, giếng nước, táo tàu, thuốc lào, đường đời, dao cau v.v..
- danh từ + tính từ: thuốc đỏ, bí xanh, đục tròn, đậu đen, nhạc vàng, suối vàng,v.v..
- danh từ + động từ: bánh chưng, máy bay, dao cạo, áo choàng, v.v..
- động từ + danh từ: cướp cò, trả lời, ăn khớp v.v.
- động từ + động từ: ăn cướp, bắt chẹt, đánh cắp, ăn hại, v.v.
- động từ + tính từ: ăn bẩn, ăn mừng, chửa hoang, xơi tái, v.v..
- tính từ + danh từ: cao mưu, mát tay, vui tính, bẽ mặt, bằng vai, v.v..
- tính từ + động từ: đen thui, êm ru, khó coi, v.v..
- tính từ + tính từ: sắc ngọt, dốt đặc, đau điếng, v.v..Lẽ ra chỉ các từ mới thuộc về từ loại nào đó, nhưng Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã chú từ loại cho cả những tổ hợp định danh gồm các tiếng đều độc lập, có nghĩa rõ ràng, ví dụ:
- đái đường, rong huyết, uốn ván v.v. là danh từ
- đái dắt, đái tháo, ỉa chảy, v.v. là động từ
- bơi bướm, bơi chó, bơi ếch v.v. là danh từ
- ném lao, ném tạ, v.v. là danh từTừ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên còn chú từ loại cho cả những cụm từ được gọi là những thành ngữ, ví dụ:- thâm sơn cùng cốc là danh từ- thay lòng đổi dạ là động từ- nhắm mắt xuôi tay là động từ- ăn gởi nằm nhờ là động từ- ăn không ngồi rồi là động từ- ăn hương ăn hoa là động từ- ăn trên ngồi trốc là động từSở dĩ có hiện tượng như vậy là vì với tư cách là những từ từ điển học thì các thành ngữ chẳng khác gì những tổ hợp được gọi là các từ ghép.Muốn khắc phục tình trạng "phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam", cần có một giải pháp nhất quán, đúng với lí luận của ngôn ngữ học đại cương, lại phù hợp với thực tế của tiếng Việt. Đấy sẽ là nội dung của một công trình khác.
- Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt. Tiếng – Từ ghép – Đoản ngữ, Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1975
- Đỗ Hữu Châu, Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Hà Nội, 1986
- Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009
- Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội, 1985
- Nguyễn Thiện Giáp, 777 khái niệm ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010
- Glebova I.I., Mấy suy nghĩ về ranh giới các đơn vị cấp độ hình vị và từ vị trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 4, 1975
- Hồ Lê, Vị trí của âm tiết, nguyên vị và từ trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 2, 1985.
- Lê Văn Lý, Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, Sài Gòn, 1972;
- Nguyễn Kim Thản Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, 1997
- Trần Ngọc Thêm, Bàn về hình, Ngôn ngữ, số 1, 1984
- Thompson L.C., A Vietnamese Grammar, Seattle, 1965
- Solncev V.M., Về cấp độ hình vị trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 1, 1990
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét