Thứ Tư, 19 tháng 1, 2011

Một·số vấn·đề về chuẩn·mực·hoá ngôn·ngữ: Nhất·quán và không nhất·quán

Tác·giả: Hoàng·Tuệ
Trong sự chuẩn mực hoá ở các mặt của ngôn ngữ, thường có xu hướng muốn đạt tới, thậm chí đòi hỏi phải đạt tới cái nhất quán. Thí dụ, trong tiếng Việt, thì khi đã nói "cái bàn" được là nói cái ghế, cái chăn, cái nhà… cũng được; như thế là nhất quán. Nhưng sự thực, không thể không thấy là trong tiếng Việt, vẫn có những hiện tượng về cái không nhất quán, thí dụ: trong sự đối lập có tàibất tài, các nghĩa khẳng định và phủ định được phân biệt rõ, nhưng ở thình lìnhbất thình lình thì nghĩa lại như nhau. Có thể dẫn một ví dụ khác: đổi Ý thành ItaliaÚc thành Ốt-xtrây-li-a… là nhất quán, nhưng chưa đổi Pháp thành Phơ-răng-xơ là không nhất quán. Trong tiếng Pháp, cũng có thể thấy rõ các nhất quán, ví dụ: la maison thì les maisons, le chien thì les chiens…; nhưng cũng có cái không nhất quán, thí dụ: nous lisons thì vous lisez, nhưng nous disons thì lại vous diles.
Quả nhiên, đối với việc sử dụng ngôn ngữ, cái nhất quán có phần thuận tiện. Nhưng nên thấy rằng đó là cái thuận tiện đối với một trình độ phát triển của ý thức. Trẻ con nước Pháp vẫn thường phạm lỗi "vous disez" vì đã từng nói vous lisez, vous visez. Và trẻ con ta có em đã nói "rửa áo quần" vì quen nói rửa mặt, và rửa bát. Trong sự chuẩn mực hoá ngôn ngữ xưa nay ở các nước, kể từ thời cổ Hi lạp-La mã, cũng có quan điểm chỉ thấy, chỉ tìm ra cho cái nhất quán và loại bỏ các không nhất quán. Đó là quan điểm của phái nhất quán luận. Nhưng từ xưa tới nay, vẫn có một quan điểm khác, quan điểm thừa nhận, chấp nhận và tôn trọng cái thực tế không nhất quán trong ngôn ngữ, trong bất kì ngôn ngữ nào. Đó là quan điểm của phái dị biệt luận. Trong ngôn ngữ học hiện đại, cấu trúc luận là rất gần gũi với nhất quán luận.

Sự thực, cái nhất quán vẫn là cơ bản nhất của ngôn ngữ. Ngôn ngữ không thể nào là một sự hỗn loạn. Cái hỗn loạn chỉ là cái chi tiết và cái nhất thời ở một giai đoạn nhất định. Và trong nhiều trường hợp, người ta chứng minh được rằng trong cái nhất quán hiện nay vốn có thể là cái không nhất quán trước đây, và cái không nhất quán hiện nay sẽ có thể là cái nhất quán trong tương lai. Có thể, rất có thể, là người Pháp sẽ nói "vous disez"! Và trong tiếng Việt, nếu ta đổi Ý thành Italia; Úc thành Australia… thì sẽ thấy đổi Pháp thành France; thành America cũng được cả và sẽ càng nhất quán. Đó là lẽ biện chứng của sự phát triển. Trong ngôn ngữ, lại cần thấy rằng cái nhất quán không phải chỉ là cái bày ra trước mắt ta trên văn bản. Cái nhất quán trong ngôn ngữ hiện ra là thông qua ý thức của con người. Và có người nhìn mà không thấy, nhưng cũng có người nhìn mà thấy cái nhất quán đó. Nhìn mà thấy được chính là nhờ có ý thức ngôn ngữ chung, và ý thức về bản ngữ của mình, do học tập mà thành. Cũng như vậy, cách nhìn của ta đối với xã hội, đối với con người, trong cái đa dạng nhất quán mà không nhất quán, không nhất quán mà nhất quán, của xã hội, của con người.

Cho nên, trong sự chuẩn mực hoá chính tả và thuật ngữ, tưởng không nên quá ngại rằng viết Shakespeare viết axit hoặc acid là không nhất quán với cách viết các từ thuộc loại khác trong tiếng Việt. Sự thực quả có không nhất quán, xét về một mặt nào đó, nhưng cũng có thể cho là nhất quán trong ý thức biết phân biệt các loại, các lớp từ khác nhau như đã trình bày. Cũng chính nhờ có ý thức đó, một ý thức được trau giồi, rèn luyện từ lứa tuổi học sinh nhỏ mà cách đọc, phát âm những tên riêng như Shakespeare, những thuật ngữ như acid, phénol… cũng trở thành không khó, vì cái khó do cái không nhất quán đó sẽ được phân biệt trên cơ sở đã có ý thức về cái nhất quán. Thực vậy, đọc và phát âm không phải là "đánh vần" theo cách hiểu đơn giản, mà đó là một hoạt động tổng hợp của trí tuệ, với sự chỉ đạo ngày một có hiệu quả của ý thức, của một ý thức ngày càng phát triển, tất nhiên là trong những điều kiện học hành phải thuận lợi cho sự phát triển đó.


Các bài-viết trong seri "Một số vấn-đề về chuẩn-mực-hoá ngôn-ngữ":
  1. Chuẩn mực hoá ngôn ngữ và văn hoá mới, con người mới
  2. Tiếp nhận từ của ngoại ngữ trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ
  3. Nhu cầu mượn từ
  4. Đồng hoá từ mượn
  5. Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
  6. Nhất quán và không nhất quán

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét