Hiển thị các bài đăng có nhãn Từ·vay·mượn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Từ·vay·mượn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017

Chữ Việt gốc Pháp còn tồn tại đến ngày nay

Tác giả: Nguyễn Đức Tuấn - Tống Phước Hiệp
Monday, 8 July 2013

.....

Hiện tại, trong vốn từ của Việt nam, ngoài 65% là từ gốc Hán còn khoảng hơn 400 từ là từ gốc Pháp, các từ này vẫn còn đang được sử dụng khắp nơi, nhiều khi miệng nói ra nhưng bạn không biết mình vừa nói một câu có chữ Pháp trong đó.

Lấy ví dụ:

Thằng đó chuyên môn lấy le để đi cua đào, nhưng con nhỏ kia thì lại hay làm reo.

Một câu như vậy là đã có 3 chữ Pháp, đó là chữ le, chữ cua và chữ reo, bởi vì trong tiếng Việt "le" là động từ trong khi ở đây là danh từ, "cua" trong tiếng Việt là danh từ trong khi ở đây là động từ, "reo" trong tiếng Việt là động từ trong khi ở đây là danh từ.

Các chữ đó vì đã quen dùng, ít người còn biết gốc gác là do đâu. Nếu việc phiên âm thể hiện rõ ràng thì bạn có thể lần mò mà tra ra được, song rất nhiều chữ mơ hồ, bạn đi tìm nguồn gốc rất khó.

Ví dụ:

Cây láp là do chữ gì ?

Doa là do chữ gì ?

Ca-ve là do chữ gì ?

Ma-cà-bông là do chữ gì ?

Những chữ như vậy, muốn biết, bạn phải đi hỏi những người đã từng sống trong thời Pháp và biết tiếng Pháp, tức những người từ 65 tuổi trở lên. Tiếc thay, số này còn lại không nhiều, các bậc cao niên thì lần lần ra đi hết, và trong số đó, không phải chữ nào họ cũng biết, vì có những chữ thuộc ngành nghề, có ở trong nghề mới biết.

Tiếng Việt gốc Pháp

Các phương pháp phiên âm

Nói cho đúng, các từ ngữ của Pháp du nhập vào Việt nam bằng nhiều con đường khá tản mạn: hoặc do thợ thuyền, hoặc do các nhà văn, nhà báo, khách ăn chơi, gái giang hồ, mỗi người phiên âm một cách, không thống nhất nhau. đàng khác, người miền Nam phiên âm theo cách của người miền Nam, người miền Bắc phiên âm theo cách của người miền Bắc, do đó cùng một chữ nhưng ta thấy có 2 cách phiên âm khác nhau.

Có thể xếp các cách phiên âm thành 6 dạng:

Thứ Tư, 15 tháng 2, 2017

Từ Hán Việt gốc Nhật trong tiếng Việt

Tác·giả: Trần Đình Sử 
Đại học Sư phạm Hà Nội

1. Tiếng Việt có một vốn từ Hán - Việt rất lớn. Tuy chưa có con số thống kê xác định, song các nhà ngôn ngữ ước lượng số từ đó chiếm từ 60-80% từ vựng tiếng Việt. Trong số từ Hán Việt tiếp thu được từ thư tịch Hán cổ, từ Hán ngữ hiện đại, có một loạt từ Hán Việt, tuy tiếp thu chủ yếu qua con đường từ sách báo Trung Quốc nhưng lại có nguồn gốc Nhật Bản, chính người Trung Quốc cũng xem là từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật Bản của họ. Có thể có cả từ gốc Nhật người Nhật trực tiếp đem đến Việt Nam hoặc người Việt trực tiếp vay mượn.

2. Dựa vào Từ điển từ ngoại lai của tiếng Hán do các tác giả Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn từ năm 1958, hoàn thành vào năm 1978, xuất bản năm 1984(1) có thể nhặt ra khoảng trên 350 từ gốc Nhật mà ngày nay vẫn được sử dụng trong tiếng Việt, chắc chắn là tiếp thu qua sách báo Trung Quốc. Các từ đó là: 

a- Về chính trị, xã hội có: Quốc lập, quốc thể, Cơ quan, kiên trì, độc tài, độc chiếm, thừa nhận, thành viên, xuất phát điểm, bối cảnh, nguyên tắc, trọng điểm, xã giao, thi hành, lao động, nghị viện, nghị quyết, chính sách, chính đảng, tổ chức, phương châm, hiến pháp, mục tiêu, nội các, tuyển cử, tuyên truyền, hiệp hội, hiệp định, nhân quyền, xã hội, nhân văn chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, giai cấp, vô sản, quyền uy, lập hiến, lập trường, lãnh thổ, đặc quyền, đặc vụ, đồng tình, thị trường, biểu quyết, hiến binh, nghĩa vụ, tư bản, tự do, chỉ thị, chỉ đạo, trung tướng, thiếu tướng, thiếu úy, nguyên soái, trọng tài, công dân, cách mạng, cao trào, quan điểm, quốc tế, công nhận, công bố, cộng hòa, cương lĩnh, cán bộ, chi bộ, tập trung, tập đoàn, giải phóng, câu lạc bộ, quân nhu, quan hậu, hội đàm, động viên, đại biểu, đại bản doanh, pháp luật, phản đối, kháng nghị, phản động, đại cục, đề kháng, tổng lãnh sự, tổng động viên, thẩm phán, thẩm vấn, bồi thẩm viên, thời sự, thực quyền, xâm phạm, tuyên chiến, dân chủ, tư pháp, phán quyết, phục vụ, phủ quyết, phần tử, thủ tiêu, tiến triển, lý tưởng, đăng kí, đơn vị, quốc giáo, hàng không mẫu hạm, Cơ đốc giáo, chiến tuyến.

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2012

Những từ dùng sai trong ngôn·ngữ Việt·Nam

1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt.
*CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
*KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.
*QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
*HUYỀN THOẠI. 

Thứ Năm, 5 tháng 7, 2012

Tiếng Việt: Có còn trong sáng?

Tác-giả: PGS. TS. Phạm-Văn-Tình


Kể từ khi cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát động công cuộc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (Tạp chí Học tập, s. 4-1966) cho đến nay đã tròn 44 năm. Phong trào này đã được toàn xã hội, đặc biệt là giới Việt ngữ học hưởng ứng với một “lộ trình” lúc lên, lúc xuống, lúc rầm rộ, lúc âm ỉ… Nhưng chưa bao giờ vấn đề giữ gìn và bảo vệ tiếng Việt lại được dư luận quan tâm nhiều như thời gian vừa qua.




Tiếng Việt đang ở đâu?

Nên bỏ phiên âm!

Tác-giả: Vũ-Đức-Sao-Biển

Báo Thanh niên, 13/05/2012 8:45 GMT+7

Tôi xin mở đầu bài viết bằng cách bàn về phiên âm của người Trung Quốc. Chữ viết của người Trung Quốc không sử dụng hệ thống alphabet của ngữ căn Latin (như của ta). Vì vậy, họ bắt buộc phải phiên âm tên nước, tên đất, tên người... của tất cả các quốc gia khác ra thành những âm tương đương với cách phát âm của họ để họ có thể viết và nói được. Tôi nói “âm tương đương” bởi những âm này nghe ra gần giống với âm gốc nhưng không giống hẳn. Họ gọi đó là phép chuyển ngữ.

Thí dụ: Tên nước - Italie thành Ý Đại Lợi; Australia thành Úc Đại Lợi; Hungarie thành Hung Gia Lợi; Laos thành Lào; Korée thành Cao Ly... Tên đất - Paris thành Ba Lê; Washington thành Hoa Thịnh Đốn; Sài Gòn thành Tây Cống; Moscou thành Mạc Tư Khoa... Tên người - Andrew thành An Đắc Lộ; Clinton thành Cơ Lâm Đôn; Ivan thành Y Phàm; Napoléon thành Nã Phá Luân...

Tư thế của họ là bắt buộc phải phiên âm để có chữ mà dùng, có âm mà đọc. Tuy vậy, những phiên âm đó cũng có quy ước khá rõ. Một - chỉ lấy âm thuần túy để đọc và viết. Thí dụ Norvège thành Na Uy; France thành Pháp; (sông) Danuble thành Đa Não hà; Brazil thành Ba Tây; Thailand thành Thái Lan; Bangkok thành Vọng Các; Rangoon thành Ngưỡng Quang; Roma thành La Mã... Hai - lấy một nghĩa, cộng một âm cho ra chữ rõ hơn. Thí dụ: New Zealand (New: mới, tân) thành Tân Tây Lan; Yougoslavie (Yougo: phía Nam) thành Nam Tư Lạp Phu; Mer Méditerranée (terranée: từ chữ terre - đất) thành Địa Trung Hải...


Một số quy ước chuyển ngữ như sau. Tất cả các tiếp vĩ ngữ Ria, Lais, Le, Lie, Ly, Li đều ra chữ Lợi: Anglais thành Anh Cát Lợi; Italie thành Ý Đại Lợi; Bulgarie thành Bảo Gia Lợi; Chile thành Chí Lợi... Tất cả những âm đứng đầu hoặc đứng giữa mang các chữ S, Z, Si, Zea, Se đều được phiên âm thành Tư, Tây, Tô: Sibérie thành Tây Bá Lợi Á; Scotland thành Tô Cách Lan; Spagne thành Tây Ban Nha; Einstein thành Ái Nhân Tư Thản; Montesquieu thành Mạnh Đức Tư Cưu; New Zealand thành Tân Tây Lan... Tất cả các tiếp vĩ ngữ Land đều thành Lan: Poland thành Ba Lan; Holland thành Hà Lan; Finland thành Phần Lan...

Trung Quốc dùng cách phiên âm - chuyển ngữ như vậy để giải quyết vấn đề khó nhất của ngôn ngữ họ là không dùng ngữ căn Latin. Ngôn ngữ, chữ viết của ta dùng hệ thống alphabet của ngữ căn Latin, nghĩa là có thế mạnh có thể viết và đọc tất cả các loại từ ngữ của mọi quốc gia theo alphabet của ngữ căn Latin, điều mà ngôn ngữ Trung Quốc không có. Vậy thì việc gì ta phải học theo kiểu phiên âm, nhằm “lấy âm mà đọc” theo cách làm của ngôn ngữ Trung Quốc?

Đầu thế kỷ 20, một số nhà báo tiền bối của chúng ta đã áp dụng kiểu phiên âm nhằm “lấy âm mà đọc” này, cho ra một số từ nghe ra âm gần giống với phiên âm của Trung Quốc nhưng ngữ nghĩa lại xa cách một trời một vực. Thí dụ hai vở kịch Horace và Le Cid của kịch tác gia Corneille (Pháp) được phiên âm ra là tuồng Hòa Lạc và tuồng Lôi Xích (viết hoa). Vở kịch Andromaque của kịch tác gia Racine được phiên âm thành Nàng An Lộ Mã. Cách phiên âm như vậy thật sự không cần thiết so với một xã hội mà tiếng Pháp đang thịnh hành và xét ra nguy hiểm cho kiến thức của người đọc. Vậy thì để nguyên văn tên các vở kịch ấy vẫn hay hơn.

Mấy chục năm qua, trong ngôn ngữ viết của sách giáo khoa, sách dịch, sách nghiên cứu và một số tờ báo, nhiều tác giả vẫn giữ cách phiên âm các thuật ngữ chỉ tên nước, tên đất, tên người vẫn theo kiểu “lấy âm mà đọc”. Báo Thanh Niên vừa đề cập đến loạn phiên âm trong văn viết. Mười bảy năm trước, tôi đã viết một bài phê phán nạn phiên âm bừa bãi này trên Tạp chí Kiến thức ngày nay và nhận được hai thư phản đối của hai vị học giả... chuyên phiên âm. Nay, tôi xin được bày tỏ lại quan điểm của mình. Tôi xin khẳng định phiên âm như cách “lấy âm mà đọc” thì chẳng đem lại được kiến thức nào cho người đọc và người học cả và là một nguy cơ cho người đọc, người học.

Một là - có một số âm trong ngữ căn Latin hoàn toàn không tìm thấy âm nào tương đương trong tiếng Việt. Thí dụ âm J từ tiếng Pháp không thể phiên âm ra âm R, âm D hay âm Gi trong tiếng Việt. Cho nên gặp chữ Johan mà cứ nhắm mắt phiên ra là Rô-han, Dô-han hay Giô-han đều sai toét. Thật khiên cưỡng và buồn cười khi tên của nhà khoa học Einstein được phiên âm ra thành Anh-xtanh. Cách đọc tên của ông này gần gũi với âm Ai-xthai hơn, mà phải đọc bằng giọng mũi thì mới đúng.

Hai là - cách phiên âm của những người “chơi” phiên âm không ra một chương pháp nào cả. Cũng với âm Anh-xtanh trên, có người phiên ra thành Anh-x-tanh, Anh-stanh, Anhxtanh, Anhstanh, Anh-s-tanh. Vậy cách nào mới là đúng đây? Viết sách giáo khoa, viết báo, dịch sách, viết phê bình là công việc khoa học. Hễ công việc khoa học thì đòi hỏi phải có phương pháp rõ ràng, chuẩn mực nhất định. Làm sao lại có thể chấp nhận tình trạng ba phải trong sáu từ trên, từ nào cũng được?

Ba là - cách phiên âm đầy tính bảo thủ, tạo ra một sự sai lầm lâu dài, nguy hiểm cho người đọc và người học. Trên báo chí ngày nay, người ta vẫn đọc thấy tên ông Bush - cựu Tổng thống Mỹ, bị phiên âm ra thành ông Busơ. Làm quái gì có một ông Busơ như vậy? Tiếp vĩ ngữ sh ở sau chỉ còn là một nửa âm, phát ra thành tiếng gió, không thể là sơ được. Cứ giữ một cái phiên âm như vậy là có lỗi, thậm chí có tội với người đọc và người học vì ta làm văn hóa sai!

Bốn là - dù có phục vụ được cho mục đích lấy âm mà đọc đi nữa thì cách phiên âm ấy vẫn là phản khoa học bởi người ta phải đọc sai, không hiểu âm ấy nói lên nội dung gì, lại làm cho văn chương tiếng Việt tối nghĩa. Hãy tưởng tượng một câu: “Ông Busơ thị sát thành phố Lốt Ăn-giơ-létx sau đó về Niu-Óoc”. Thiệt là mệt cái lỗ tai. Thì thôi, ta cứ viết “Ông Bush thị sát thành phố Los Angeles sau đó về New York” - vừa dễ viết, vừa dễ đọc. Bởi ai cũng có thể nghe được Los Angeles và New York và biết đó là hai thành phố của Mỹ.

Năm là - ngày trước, dân trí còn thấp, nhân dân ít tiếp cận với ngoại ngữ; chỉ có một bộ phận đi học mới học được ngoại ngữ. Ngoại ngữ ngày trước cũng chỉ giới hạn trong phạm vi tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung. Ba mươi bảy năm sau ngày thống nhất, lớp trẻ đã được học ngoại ngữ trong giáo trình trung học và đại học. Ngoại ngữ đã mở rộng ra với tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Nhật, tiếng Tây Ban Nha... Kỹ thuật truyền thông - báo chí bùng nổ, ngành du lịch phát triển, nhân dân có cơ hội sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp. Một xã đảo xa vắng như xã Tân Hiệp (Cù Lao Chàm) ở Quảng Nam có trên 60% người biết giao tiếp tiếng Anh. Tiếng Anh đã trở thành ngoại ngữ phổ thông nhất trong các ngoại ngữ, sau đó là tiếng Pháp.

Vậy thì, với thế mạnh của một ngôn ngữ dùng alphabet Latin, chúng ta còn duy trì cách phiên âm loạn cào cào theo kiểu “lấy âm mà đọc” làm gì? Người đọc sách, đọc báo, nghe đài có quyền tiếp cận với thuật ngữ gốc của tên nước, tên người, tên đất... quốc gia ấy. Tôi không đồng ý với quan điểm vừa dùng tên gốc, có mở ngoặc đơn dùng chữ phiên âm. Chữ nghĩa của người ta là như vậy và phải học đúng như vậy. Với các nhóm ngữ căn đặc biệt (khối Slave, Arab, Sanskrit, Hindou), ta bắt buộc phải dùng thuật ngữ phiên âm chuẩn của tiếng Anh hay tiếng Pháp.

Học sinh phải đọc được các tên Pythagore, Euclide, Joule, Newton, Pavlov, Beethoven, Mozart, Washington, Dubai, Tungku Abdul Razak, Upanishad, Paris, Caracas, Moscow... Nhà giáo phải dạy các em đọc đúng tên. Sách và báo phải viết đúng chữ. Giữ lại cách phiên âm thô thiển chỉ làm chậm dân trí, lại làm cho con người sợ... ngoại ngữ.

Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2012

Phiên-âm Anh Việt: Đuôi của từ tiếng Anh

Tác-giả: Nguyễn-Tiến-Hải

Cập-nhật: 2012.07.05 3:23 AM GMT+9

Câu hỏi: Phiên-âm 2 từ blog và blogger ra tiếng Việt như thế nào thì hợp-lí?

Tiêu-chí: Phải dùng cách viết tiếng Việt, từ mới phải có cách đọc sao-cho càng giống với cách phát-âm chuẩn của từ nguyên gốc trong tiếng Anh càng tốt. Hai từ phiên-âm mới được tạo thành phải khác nhau vì hai từ blog và blogger khác nhau.

Ý-tưởng giải-pháp:

Theo http://dictionary.cambridge.org

blog phát-âm chuẩn giọng UK là /blɒg/, chuẩn giọng US là /blɑːg/.

blogger phát-âm chuẩn theo giọng UK là /ˈblɒg.ər /, chuẩn giọng US là /ˈblɑː.gɚ/.

* Tôi đề-nghị cách phiên-âm thành tiếng Việt như sau:

Blog phiên-âm thành "bờ-lo-gơ"

Blogger phiên-âm thành "bờ-lo-gờ" (gờ có dấu huyền)

Đánh-giá:

Bờ-lo-gờ nhấn mạnh ở cuối hơn so với bờ-lo-gơ.

Bờ-lo-gơ thể-hiện được âm tận-cùng là g của chữ blog.

Nếu phiên-âm blog thành bờ-lốc thì đã mất chữ tận-cùng. Và nếu blog phiên-âm thành bờ-lốc thì block sẽ phiên-âm thế nào đây?

Nhược điểm: Các phụ-âm tận-cùng trong tiếng Anh như g trong blog, hay sh trong Bush chỉ là một nửa âm, phát âm thành tiếng gió, nên không thể gắn thêm ơ để thành hay được.[2] Vì thế, nếu tiếng Việt cho phép cách đọc tiếng gió thì tốt hơn không cần thêm ơ để phiên âm đuôi của từ tiếng Anh nữa.

Tổng-quát:

Nếu từ tiếng Anh tận-cùng là phụ-âm+er/or thì phiên-âm thành từ tiếng Việt tận-cùng phụ-âm+ờ (có dấu huyền).

Nếu từ tiếng Anh chỉ tận-cùng là phụ-âm mà không có er/or thì phiên-âm thành từ tiếng Việt tận-cùng phụ-âm+ơ (không có dấu huyền).

Ví-dụ:

Tương-tự với các từ "teach" (tit-chơ) và "teacher" (tit-chờ),...(trường-hợp này không cần-thiết phiên-âm vì tiếng Việt đã có dạy giáo-viên :) )

computer /kəmˈpjuː.tər/ phiên-âm thành kơm-piu-tờ

doctor /ˈdɒk.tər / (UK) /ˈdɑːk.tɚ/ (US) phiên-âm thành đooc-tờ

Tham-khảo:

* Người Hàn-Quốc phiên-âm rất nhiều thuật-ngữ tiếng Anh ra tiếng Hàn. Họ gọi những từ tiếng Anh đó là "tiếng Anh bị đập vỡ" (broken English). Nếu từ trong tiếng Anh tận-cùng bằng thì họ phiên-âm thành từ tiếng Hàn có tận-cùng là khừ (크, ví-dụ network --> 네트워 đọc là nê-thừ-ươ-khừ),  s => xừ (스, ví-dụ: bus --> 버 đọc là po-xừ), t/d => đừ (드),...

[2]. Vũ-Đức-Sao-Biển, "Nên bỏ phiên âm!", Báo Thanh niên, 13/05/2012 8:45 GMT+7, url: http://tuansan.thanhnien.com.vn/pages/20120513/nen-bo-phien-am.aspx

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

Chữ vuông và chữ Quốc ngữ: Cái mất và cái được

Tác-giả: Phan-Quý-Bích

Khi đặt câu hỏi "Chữ Tây, chữ Hán, thứ chữ nào hơn?"[i], ông Cao Xuân Hạo muốn đi tìm một hình thức ký chép phù hợp cho tiếng Việt chứ hoàn toàn không có ý rẻ rúng thứ chữ này hay thứ chữ kia, như có một vài người đã ngộ nhận. Đối với chúng ta, cũng như đối với tuyệt đại đa số các dân tộc trên thế giới, kể cả các dân tộc như Anh, Pháp, Nhật, chữ viết là cái đi vay mượn. Mà đã vay mượn thì vì sao ta lại không xét xem hình thức vay mượn nào phù hợp hơn với tiếng nói dân tộc? Đó là thiện chí khoa học của bài viết. Cho dù, việc vay mượn một chữ viết mang tính cách thừa kế hơn là lựa chọn, cho dù lịch sử là cái không thể đảo ngược, con mắt nhìn khoa học cũng không thừa, vì nó sẽ giúp chúng ta sử dụng tốt hơn công cụ mà chúng ta đang có là quốc ngữ. Những gì ông Cao Xuân Hạo đã bàn còn có thể hữu ích cho việc nghiên cứu Việt ngữ dưới hình thức ngôn ngữ viết.

Tuy nhiên, câu trả lời của ông, theo đó, chữ Hán có ưu điểm hơn abc ở chỗ : 1. phù hợp với ngữ âm của tiếng Việt hơn; 2. thuận cho việc đọc hơn, mới chỉ xét chữ viết về phương diện ký chép lời nói. Vì thế, ý kiến của Léon Vandermeersch mà ông dẫn ra, về việc bỏ chữ Hán là có hại, tuy cũng liên quan đến việc tri giác tiếng Việt, nhưng không dính dáng gì đến sự tri giác ngữ âm, mà liên quan đến việc ký chép óc tưởng tượng xã hội, đến di sản văn hoá và qui tắc tư duy trong chữ viết, một chuyện hoàn toàn khác. Chúng ta hãy bàn trước hết đến việc ký chép thanh âm.

“Hán Việt” và “thuần Việt”

Tác·giả: Cao·Xuân·Hạo

(DVT.vn) - Nhiều từ tưởng là “thuần Việt” thật ra ta đã “vay mượn” từ tiếng Việt-Mường hay tiếng Môn-Khmer. Vậy tại sao lại "ghẻ lạnh" những từ Hán-Việt ông cha ta quen dùng?

Đã có một thời người ta bài trừ hai chữ trực thăng và thay nó bằng mấy chữ máy bay lên thẳng, vì trực thăng là “từ Hán-Việt”, một thứ từ ngữ “ngoại lai”, “đi mượn của người Hán”, tức là từ của tiếng nước ngoài, còn lên thẳng là từ “thuần Việt”, là sản phẩm “cây nhà lá vườn” đáng tự hào của người Việt Nam “chính cống”, tức người “Kinh”, người “Giao Chỉ”, người “Keo” hay người “Yuôn”.

Việc sử dụng nhiều các từ Hán-Việt được nhiều người coi là một hành vi lạm dụng, thậm chí vô đạo đức, cần tránh đến mức tối đa, nhất là khi đã có sẵn những từ  “thuần Việt” có thể dùng để thay thế, và việc thay thế này được coi là một nghĩa cử có tác dụng “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mọi công dân nước Việt. Việc thay thế trực thăng bằng lên thẳng đã từng được đánh giá là “một thành tựu lớn lao trong việc bảo vệ nền văn hóa dân tộc”.

Chữ Tây và chữ Hán, thứ chữ nào hơn?

Tác-giả: Cao-Xuân-Hạo

Từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX trở về trước, người châu Âu thường yên trí rằng mình dùng thứ chữ viết hợp lý nhất, khoa học nhất, tiến bộ nhất. Vì thứ chữ ABC của họ là thứ chữ ghi âm. Năm 1897, Hội ngữ âm học quốc tế ra đời cùng với bảng chữ cái gọi là Tự mẫu phiên âm quốc tế - International Phonetic Alphabet (IPA), được coi là lý tưởng của lối chữ ghi âm. Trong mấy thập kỷ kế theo, người ta thi nhau lên án những cái "bất hợp lý" trong hệ thống chính tả của những thứ tiếng như tiếng Pháp và tiếng Anh ("phát âm một đàng viết một nẻo") và những đề án cải cách chính tả thi nhau lần lượt ra đời.

Thế nhưng gần một trăm năm đã qua, mà không có một đề nghị nhỏ nào trong các đề án đó được thực hiện.

Thật là may, vì đó là một việc không thể làm được, và không nên làm một chút nào. Niềm tự hào ấu trĩ về lối viết ABC cũng như những cáo trạng ồn ào về tính "bất hợp lý" của chính tả Pháp, Anh và những đề nghị cải cách chữ viết đủ kiểu đều xuất phát từ một sự lầm lẫn thô thiển: lúc bấy giờ người ta chưa hiểu cho lắm là chữ viết có chức năng gì trong đời sống và trong nền văn minh, và nó cần phải như thế nào mới làm tròn được chức năng ấy ở mức tối ưu.

Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

Chuyện viết tiếng Việt: Đừng vội vàng quá (Trao đổi với tác giả Hoàng Hồng Minh)

Tác-giả: Ths Đào-Tiến-Thi

(Nhà-xuất-bản Giáo-dục Việt-Nam)
Trong bài Chuyện viết tiếng Việt của tác giả Hoàng Hồng Minh (HHM) trên tạp chí Tia sáng ngày 16-08-2011[i], ngoài việc đặt ra vấn đề nên đưa thêm mấy chữ cái (ký tự) F, J, W, Z vào bảng chữ cái tiếng Việt hay không (điều mà dư luận có ồn lên khoảng tháng nay), tác giả còn bàn thêm hai vấn đề của tiếng Việt: viết tên riêng nước ngoài và viết các từ ghép, từ láy (HHM gọi chung là “từ kép”) trong tiếng Việt.

Tôi xin được trao đổi một số ý kiến với tác giả.

Thứ Ba, 31 tháng 5, 2011

Những điểm cần lưu·ý khi dịch một văn·bản khoa·học - kĩ·thuật từ tiếng Anh sang tiếng Việt (Some challenges in the translation of an Englishscientific technical text into Vietnamese)

Tác·giả:  
  • Nguyễn·Phước·Vĩnh·Cố, Trường Đại·học Ngoại·ngữ, Đại·học Đà·Nẵng
  • Nguyễn·Bắc·Nam, Đại·học Đà·Nẵng
TÓM TẮT
Khi dịch một văn bản Khoa học - Kỹ thuật từ Anh sang Việt, giáo viên và sinh viên ViệtNamhầu như không quen với các đặc trưng ngữ pháp (thể thụ động, vô nhân xưng, hình thái xưng hô...) vốn được xen lẫn với các biến thể ngôn ngữ khác. Để góp phần vào việc học tiếng Anh nói chung và dịch nói riêng, bài báo đề cập đến những thách thức mà người dịch gặp phải trong một văn bản KH- KT và phân tích những thách thức này qua việc xem xét 3 tham số ngữ vực: trường diễn ngôn, người tham dự diễn ngôn và phương thức diễn ngôn. Bài báo cũng nêu ra một số giải pháp để giải quyết những thách thức nói trên.

ABSTRACT
Most of the Vietnamese teachers and students seem to be unfamiliar with a scientific and technical text in English. Its characteristics and grammatical features (passive; impersonality; forms of address)... merge with other varieties of language. As part of an effort to contribute the ideas to the study of English in general and the field of translation in particular, the present paper refers to the challenges faced by the translator when dealing with a scientific and technical text and provides an analysis of these challenges by examining the three register parameters: field of discourse, tenor of discourse and mode of discourse. The paper also deals with some solutions to these challenges.

Thứ Tư, 25 tháng 5, 2011

Phạm·Văn·Hải - Chữ Hán và tiếng Hán-Việt

Tên sách: Chữ Hán và tiếng Hán·Việt
Tác·giả: Phạm·Văn·Hải
Năm xuất·bản: 2005
Nơi xuất·bản: USA, Virginia, Falls Church
Số trang: 1016

Phiên·bản sách điện·tử có định·dạng file là PDF. Bạn có·thể vào xem sách online ở link sau: https://docs.google.com. Sau đó, bạn có·thể tải file sách về máy bạn từ google documents bằng cách chọn menu File => Download Original (hoặc bấm CTRL+S) trong google docs https://docs.google.com .

Mục·lục:
Lời nói đầu........................................................................xv

Chương 1: Tiếng Hán·Việt là gì?............................................1

Chương 2: Tại sao có tiếng Hán·Việt trong tiếng Việt................7

Chương 3: Cách nhận mặt tiếng Hán·Việt...............................17

Chương 4: Chữ Hán.............................................................27

Chương 5: Chữ Hán · Tìm chữ...............................................39

Chương 6: Học chữ Hán........................................................65

Chương 7: Chia loại tiếng Hán·Việt.........................................123

Chương 8: Chữ viết của người Việt · Chữ Nôm........................143

Chương 9: Nhìn lại ảnh·hưởng của Trung·Hoa trong tiếng Việt....171

Chương 10: Một số chữ Hán và tiếng Hán·Việt thường thấy........185

Tài·liệu tham·khảo............................................................... 995


Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

Sơ·lược về vấn·đề dịch·thuật

Tác·giả: Dũng Vũ
(Germany, Stuttgart, 13 tháng 04 năm 2004)

Là một trong những dạng sinh hoạt ngôn ngữ phức tạp, trước khi chính thức trở thành một bộ môn khoa học [1] , dịch thuật được hiểu là quá trình hoán chuyển chữ viết một văn bản từ ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ khác (s. s. Koller, 1992:80).

Riêng tại Âu châu, sinh hoạt dịch thuật đã được biết đến từ khá lâu, ví dụ dịch Kinh Thánh. Martin Luther là người nổi tiếng về công việc này và cũng là người đã góp nhiều công lao phát triển lý thuyết dịch thuật tại đây (Stedje, 1999:123).


Vào khoảng đầu thập niên 60, để định nghĩa cũng như cắt nghĩa quá trình dịch, giới ngôn ngữ học đã tiến hành những cuộc nghiên cứu về dịch thuật tự động [2] . Một lý thuyết khoa học dịch thuật đã hình thành từ đó với tiền đề: mỗi từ của một ngôn ngữ có thể được diễn tả bằng một từ, một ngữ đoạn của một ngôn ngữ khác tương ứng một trăm phần trăm.

Suy nghĩ nặng tính cách ngôn ngữ học rằng dịch thuật chỉ đơn thuần là sự chuyển tải nội dung từ một ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ dịch, cũng như việc coi trọng hình thức ngôn ngữ hơn nội dung chính là nguyên do khiến cho có nhiều văn bản không được lưu tâm đúng mức, cụ thể là những văn bản văn chương.

Nhận thức được giới hạn ấy, độc lập với dịch thuật văn chương, trong nội bộ dịch thuật khoa học đã xuất hiện một xu hướng mới: dịch thuật không còn được hiểu đơn giản là sự chuyển tải nội dung mà còn cả văn hóa. Sự đảm bảo tính giao lưu đã trở thành một điều kiện ắt có. Kết quả dịch thuật phải chứng minh được giá trị tương đương về tính giao lưu của văn bản gốc đối với văn bản dịch.

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011

Đào-Duy-Anh - Hán-Việt từ-điển giản-yếu

(5000 đơn-tự, 40000 từ ngữ)

Tác-giả: Đào-Duy-Anh

Link download: https://docs.google.com (file pdf, 43 MB) (Nhà-xuất-bản Văn-hóa Thông-tin, bản mới in lại năm 2005).

Chú ý! Sau khi bạn click vào link trên, thông-báo sau đây sẽ hiện-ra: "Sorry, we are unable to scan this file for viruses. The file exceeds the maximum size that we scan. Download anyway" . Bạn hãy click vào Download anyway để tải sách về.

Link dự-phòng: http://www.mediafire.com/?ngd9nwubmuuui94

Nhà-xuất-bản: IMPRIMERIE TIENG DAN
Năm xuất-bản: 1932
Số trang: 1204
Kích-thước: 15 x 22cm
Số quyển trên/1 bộ: 1
Hình-thức bìa: Bìa cứng
Nguồn sách: Tủ-sách gia-đình Nhà-sách Sông-Hương
Đọc sách online (bản scan sách cũ in năm 1932) tại địa-chỉ: http://www.songhuong.com.vn/main.php?cid=40,3&id=27&case=2&left=40,18&gr=2#


Thứ Hai, 25 tháng 4, 2011

Tham-khảo nguyên-tắc chuẩn-hoá thuật-ngữ khoa-học ở các nước

(Tạp-chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 5 (115) - 2005, trang 12 - Ngôn ngữ & Đời sống, 5 - 2008, trang 12)


Tác-giả: Nguyễn-Thị-Kim-Thanh


Thuật ngữ khoa học là một bộ phận từ ngữ quan trọng của hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới, đó là “những từ và cụm từ cố định để chỉ những khái niệm của một ngành khoa học nào đó, ngành sản xuất hay ngành văn hoá nào đó…”, “là bộ phận từ vựng biểu đạt các khái niệm khoa học, là thuộc tính của khoa học, kỹ thuật, chính trị, tức là những lĩnh vực của xã hội đã được tổ chức một cách có trí tuệ” (Nguyễn Như Ý, 1997, Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội), Vậy nên, chuẩn hoá thuật ngữ là một trong những nội dung chính của chuẩn hoá ngôn ngữ.

Thứ Hai, 24 tháng 1, 2011

Phương-châm trong việc tạo từ mới

Tác-giả: Đặng-Hải-Nguyên



  1. Tính dân tộc:

    1.1 Thuần Việt :


    Sử dụng những từ thuần Việt.


    Ví dụ:
    gourmet powder: bột ngọt hay vị tinh.
    stomach: dạ dày hay bao tử.


    1.2 Nho Việt:


    Những từ Nho Việt do người Việt tạo ra, là đặc trưng riêng của Việt Nam.


    Ví dụ:
    stomach: bao tử.  Nếu dịch sát nghĩa từ "bao tử", bao là cái bao, tử là chết; từ "bao tử" không có nghĩa gì trong tiếng Trung Hoa. Theo ngữ pháp Trung Hoa, họ nói ngược lại là "tử bao" dịch sát có nghĩa là "bao chết". Hơn nữ, từ "bao tử" còn mang một ý nghĩa triết lý trong đó.


    Từ "vị tinh" ghi theo Hán tự (Chinese character) hoặc Nho tự là "". Nếu phiên âm theo giọng đọc của tiếng Quảng Đông là "mì chính". Nếu đọc "" theo âm Việt và ghi theo mẫu tự La-tinh thì từ Nho Việt là "vị tinh". Từ "vị tinh" thể hiện rõ nghĩa của từ là tinh chất của vị.


    Please make yourself as home: xin đừng khách sáo (khách khí – 客氣), xin tự nhiên như ở nhà bạn . Từ "sáo" lột tả được nhiều ý nghĩa hơn là từ "khí" (). Hơn nữa, ta có những từ gần với nó như sáo ngữ, nói như sáo.


  2. Tính khoa học

Nguyên-tắc tạo từ mới

Tác-giả: Đặng-Hải-Nguyên


Hán tự hoặc Nho tự được tạo ra theo sáu cách gọi là phép lục thư (六書).


  1. Tượng Hình (象形): căn cứ trên hình tượng của sự vật. Ví dụ:
    Ghép một gạch ngang (
    ), một sổ thẳng (), hai nét phẩy xuống ở hai bên, tượng trưng một cây có cành ngang, rễ dọc, để ghi chữ Mộc "", có nghĩa là "cây".

  2. Chỉ Sự (指事) hay Biểu Ý (表意) (hay tượng sự, xử sự): Trông mà biết được, xét mà rõ ý. Ví dụ:
    Chữ Bản (
    ), do ghép chữ Mộc () và thêm gạch ngang diễn tả ý nghĩa "gốc rễ".
    Lấy nét ngang (
    ) làm mốc, phần (–) đứng ở trên mốc là () thượng, phần đứng ở dưới mốc là () hạ.

  3. Hội Ý (會意) (hay tượng ý): Mỗi chữ có nhiều phần, mỗi phần có một nghĩa, hợp ý của hai chữ ấy lại để tạo ra một chữ mới với ý mới. Ví dụ:
    Chữ Lâm (
    ) là rừng , do ghép hai chữ Mộc () tạo thành, rừng do nhiều cây hợp thành.
    Chữ Cổ (
    ) là xưa, ngụ ý điều gì mà mười ( Thập) miệng ( Khẩu) đã nói đến là cũ, xưa rồi.

  4. Hình Thanh (形聲), (hay tượng thanh, hài thanh): chiếm 80% toàn bộ chữ Hán. Mượn phần âm () của một chữ có sẵn rồi ghép vào một bộ (phần hình ) chỉ ý nghĩa, để tạo ra chữ mới. Ví dụ:
    Chữ Vị (
    ) trong "khẩu vị" do ghép bộ Khẩu () chỉ việc ăn hoặc nói, và chữ Vị () là "chưa" trong "chưa đến – vị lai" để chỉ cách phát âm.
    Chữ Giang
    là sông, gồm bộ Thuỷ () để chỉ vật gì có liên quan đến nước (ý nghĩa) và chữ công () chỉ cách phát âm của chữ ", Giang". Ghi chú: theo cách tạo từ này, lẽ ra phải đọc là "Giông" chứ không phải "Giang" vì nó lấy âm "ông" trong chữ "công, ".  Nếu thay âm "Gi" Việt cổ (?) hay Hán cổ (?) bằng âm "S" Việt hiện nay, chữ ta đọc là "sông", nghĩa là sông (river) là hợp tình hợp lý nhất?! Trong 80% toàn bộ chữ Hán được tạo theo phương thức Hình Thanh, có bao nhiêu chữ thuộc loại này? Phần này để các bạn cũng như các nhà nghiên cứu suy nghĩ thêm về tính chính danh của cách gọi "từ Nho Việt" thay cho "từ Hán Việt".

  5. Chuyển Chú (轉注): Dùng một chữ có sẵn, thay đổi hình dạng đi đôi chút, để đặt ra một chữ khác có nghĩa tương tự. Ví dụ:
    Ghép bộ Thảo (cây cỏ) vào chữ Lạc (
    , vui vẻ) thành chữ Dược () là thuốc
    Chữ Lão (
    ) là già, thay đổi hình dạng đôi chút ta có Khảo () nghĩa là "sống lâu".

  6. Giả Tá (假借): Mượn âm của một chữ có sẵn:
    a. Biến đổi dấu giọng (thanh) của chữ ấy để tạo thành một chữ mới với nghĩa khác.
    Ví dụ:
    Trường: dài, Trưởng: lớn.
    b. Giữ nguyên thanh âm của một chữ nào đó, rồi gán thêm cho nó một nghĩa mới.
    Ví dụ:
    Vạn, vốn có nghĩa là con bò cạp, nhưng lại dùng thêm nghĩa mới là mười ngàn.


Nhờ chữ quốc ngữ viết bằng mẫu tự La tinh, chúng ta không bị đóng khung trong phép "lục thư" trong việc tạo từ mới.

Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2011

Một·số vấn·đề về chuẩn·mực·hoá ngôn·ngữ: Tiếp·nhận từ của ngoại·ngữ trong quá·trình tiếp·xúc ngôn·ngữ

Tác·giả: Hoàng·Tuệ

Chất liệu ngôn ngữ bao gồm chất liệu hình thức và chất liệu nội dung.
Chất liệu nội dung là những sự vật, những khái niệm, những tư tưởng, tình cảm… Những cái đó, làm nên văn hoá vật chất và tinh thần của mỗi dân tộc, không phải và không thể là do mỗi dân tộc tạo ra tất cả. Có những cái, có cả những bộ phận, do tiếp nhận tự ngoài vào mà có, và cùng với sự tiếp nhận chất liệu nội dung là sự tiếp nhận chất liệu hình thức. Đó là lí do chính vì sao trong một ngôn ngữ có thể có những từ vốn của ngoại ngữ. Yêu cầu chuẩn mực hoá thường được đặt ra chủ yếu đối với những từ này. Vì thế, thiết tưởng cần phải tìm hiểu hiện tượng tiếp nhận từ của ngoại ngữ, phân loại những trường hợp khác nhau, mới có thể xác định giới hạn đối với yêu cầu nói trên.

Thứ Sáu, 21 tháng 1, 2011

Quy-tắc chính-tả tiếng Việt và phiên-chuyển tiếng nước ngoài

Tác-giả: Chủ-tịch Hội-đồng Quốc-gia Chỉ-đạo Biên-soạn Từ-điển-bách-khoa Việt-Nam


I. Chính tả tiếng Việt
Hiện nay, trong các trường học và trong sách giáo khoa phổ thông đã thống nhất cách viết tiếng Việt theo chính tả truyền thống. Tuy nhiên, trong sách báo và giữa các nhà xuất bản vẫn chưa có sự thống nhất, nhất là việc phiên chuyển tiếng nước ngoài và chưa có văn bản quy định của Nhà nước.
Trong lúc chờ đợi quy định thống nhất của Nhà nước, được phép của thủ tướng chính phủ (Công văn số 4: 1635/VPCP-KG ngày 27 tháng 4 năm 2000) và thực hiện nghị quyết của Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam trong Hội nghị toàn thể ngày 3-4.5.2000, sau khi lấy ý kiến của các uỷ viên Hội đồng và được Ban thường trực thông qua, chủ tịch Hội đồng ban hành quy tắc chính tả và phiên chuyển tiếng nước ngoài để áp dụng thống nhất trong bộ Từ điển bách khoa Việt Nam và các công trình khoa học của Hội đồng.

Về bản dự thảo Quy định cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài trong các văn bản quản lí nhà nước

Tác-giả: Nguyễn-Văn-Khang


Sáng ngày 18 tháng 5 năm 2006, tại trụ sở Viện Ngôn ngữ học 36 Hàng Chuối - Hà Nội, Phó Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - PGS.TS Trần Đức Cường - đã chủ trì buổi họp báo giới thiệu bản Dự thảo Quy định cách viết cách đọc tên riêng nước ngoài trong các văn bản quản lí Nhà nước và việc công bố Dự thảo này trên báo chí để tranh thủ ý kiến góp ý. Tới dự có đại diện của Bộ Văn hoá và Thông tin, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, các báo Nhân Dân, Lao Động, Tiền Phong, Người đại biểu nhân dân,... Để giúp cho mọi người có thể tham gia góp ý kiến cho bản Dự thảo, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống xin giới thiệu bài viết của GS.TS Nguyễn Văn Khang về nội dung có liên quan đến bản Dự thảo này.