Thông báo: Từ vựng tiếng Hàn thường gặp nhất từ 301 trở đi có tính phí. Vui lòng xem hướng dẫn bên góc phải. Notice: 6000 most common Korean words with sample sentences and explanations from 301 are not free. Please contact us at nguyentienhai@gmail.com for more details. Website for learning Korean language effectively in shortest time, fast learning Korean, 6000 most common Korean words, basic Korean words with sample sentences,
Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017
Chữ Việt gốc Pháp còn tồn tại đến ngày nay
Thứ Tư, 15 tháng 2, 2017
Từ Hán Việt gốc Nhật trong tiếng Việt
Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2012
Những từ dùng sai trong ngôn·ngữ Việt·Nam
*CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
*KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.
*QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
*HUYỀN THOẠI.
Thứ Năm, 5 tháng 7, 2012
Tiếng Việt: Có còn trong sáng?
Kể từ khi cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát động công cuộc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (Tạp chí Học tập, s. 4-1966) cho đến nay đã tròn 44 năm. Phong trào này đã được toàn xã hội, đặc biệt là giới Việt ngữ học hưởng ứng với một “lộ trình” lúc lên, lúc xuống, lúc rầm rộ, lúc âm ỉ… Nhưng chưa bao giờ vấn đề giữ gìn và bảo vệ tiếng Việt lại được dư luận quan tâm nhiều như thời gian vừa qua.
Tiếng Việt đang ở đâu?
Nên bỏ phiên âm!
Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2012
Phiên-âm Anh Việt: Đuôi của từ tiếng Anh
Cập-nhật: 2012.07.05 3:23 AM GMT+9
Câu hỏi: Phiên-âm 2 từ blog và blogger ra tiếng Việt như thế nào thì hợp-lí?
Tiêu-chí: Phải dùng cách viết tiếng Việt, từ mới phải có cách đọc sao-cho càng giống với cách phát-âm chuẩn của từ nguyên gốc trong tiếng Anh càng tốt. Hai từ phiên-âm mới được tạo thành phải khác nhau vì hai từ blog và blogger khác nhau.
Ý-tưởng giải-pháp:
Theo http://dictionary.cambridge.org
blog phát-âm chuẩn giọng UK là /blɒg/, chuẩn giọng US là /blɑːg/.
blogger phát-âm chuẩn theo giọng UK là /ˈblɒg.ər /, chuẩn giọng US là /ˈblɑː.gɚ/.
* Tôi đề-nghị cách phiên-âm thành tiếng Việt như sau:
Blog phiên-âm thành "bờ-lo-gơ"
Blogger phiên-âm thành "bờ-lo-gờ" (gờ có dấu huyền)
Đánh-giá:
Bờ-lo-gờ nhấn mạnh ở cuối hơn so với bờ-lo-gơ.
Bờ-lo-gơ thể-hiện được âm tận-cùng là g của chữ blog.
Nếu phiên-âm blog thành bờ-lốc thì đã mất chữ g tận-cùng. Và nếu blog phiên-âm thành bờ-lốc thì block sẽ phiên-âm thế nào đây?
Nhược điểm: Các phụ-âm tận-cùng trong tiếng Anh như g trong blog, hay sh trong Bush chỉ là một nửa âm, phát âm thành tiếng gió, nên không thể gắn thêm ơ để thành gơ hay sơ được.[2] Vì thế, nếu tiếng Việt cho phép cách đọc tiếng gió thì tốt hơn không cần thêm ơ để phiên âm đuôi của từ tiếng Anh nữa.
Tổng-quát:
Nếu từ tiếng Anh tận-cùng là phụ-âm+er/or thì phiên-âm thành từ tiếng Việt tận-cùng phụ-âm+ờ (có dấu huyền).
Nếu từ tiếng Anh chỉ tận-cùng là phụ-âm mà không có er/or thì phiên-âm thành từ tiếng Việt tận-cùng phụ-âm+ơ (không có dấu huyền).
Ví-dụ:
Tương-tự với các từ "teach" (tit-chơ) và "teacher" (tit-chờ),...(trường-hợp này không cần-thiết phiên-âm vì tiếng Việt đã có dạy và giáo-viên :) )
computer /kəmˈpjuː.tər/ phiên-âm thành kơm-piu-tờ
doctor /ˈdɒk.tər / (UK) /ˈdɑːk.tɚ/ (US) phiên-âm thành đooc-tờ
Tham-khảo:
* Người Hàn-Quốc phiên-âm rất nhiều thuật-ngữ tiếng Anh ra tiếng Hàn. Họ gọi những từ tiếng Anh đó là "tiếng Anh bị đập vỡ" (broken English). Nếu từ trong tiếng Anh tận-cùng bằng k thì họ phiên-âm thành từ tiếng Hàn có tận-cùng là khừ (크, ví-dụ network --> 네트워크 đọc là nê-thừ-ươ-khừ), s => xừ (스, ví-dụ: bus --> 버스 đọc là po-xừ), t/d => đừ (드),...
[2]. Vũ-Đức-Sao-Biển, "Nên bỏ phiên âm!", Báo Thanh niên, 13/05/2012 8:45 GMT+7, url: http://tuansan.thanhnien.com.vn/pages/20120513/nen-bo-phien-am.aspx
Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012
Chữ vuông và chữ Quốc ngữ: Cái mất và cái được
“Hán Việt” và “thuần Việt”
Việc sử dụng nhiều các từ Hán-Việt được nhiều người coi là một hành vi lạm dụng, thậm chí vô đạo đức, cần tránh đến mức tối đa, nhất là khi đã có sẵn những từ “thuần Việt” có thể dùng để thay thế, và việc thay thế này được coi là một nghĩa cử có tác dụng “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mọi công dân nước Việt. Việc thay thế trực thăng bằng lên thẳng đã từng được đánh giá là “một thành tựu lớn lao trong việc bảo vệ nền văn hóa dân tộc”.
Chữ Tây và chữ Hán, thứ chữ nào hơn?
Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012
Chuyện viết tiếng Việt: Đừng vội vàng quá (Trao đổi với tác giả Hoàng Hồng Minh)
(Nhà-xuất-bản Giáo-dục Việt-Nam)
Thứ Ba, 31 tháng 5, 2011
Những điểm cần lưu·ý khi dịch một văn·bản khoa·học - kĩ·thuật từ tiếng Anh sang tiếng Việt (Some challenges in the translation of an Englishscientific technical text into Vietnamese)
- Nguyễn·Phước·Vĩnh·Cố, Trường Đại·học Ngoại·ngữ, Đại·học Đà·Nẵng
- Nguyễn·Bắc·Nam, Đại·học Đà·Nẵng
Khi dịch một văn bản Khoa học - Kỹ thuật từ Anh sang Việt, giáo viên và sinh viên ViệtNamhầu như không quen với các đặc trưng ngữ pháp (thể thụ động, vô nhân xưng, hình thái xưng hô...) vốn được xen lẫn với các biến thể ngôn ngữ khác. Để góp phần vào việc học tiếng Anh nói chung và dịch nói riêng, bài báo đề cập đến những thách thức mà người dịch gặp phải trong một văn bản KH- KT và phân tích những thách thức này qua việc xem xét 3 tham số ngữ vực: trường diễn ngôn, người tham dự diễn ngôn và phương thức diễn ngôn. Bài báo cũng nêu ra một số giải pháp để giải quyết những thách thức nói trên.
Thứ Tư, 25 tháng 5, 2011
Phạm·Văn·Hải - Chữ Hán và tiếng Hán-Việt
Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011
Sơ·lược về vấn·đề dịch·thuật
Riêng tại Âu châu, sinh hoạt dịch thuật đã được biết đến từ khá lâu, ví dụ dịch Kinh Thánh. Martin Luther là người nổi tiếng về công việc này và cũng là người đã góp nhiều công lao phát triển lý thuyết dịch thuật tại đây (Stedje, 1999:123).
Vào khoảng đầu thập niên 60, để định nghĩa cũng như cắt nghĩa quá trình dịch, giới ngôn ngữ học đã tiến hành những cuộc nghiên cứu về dịch thuật tự động [2] . Một lý thuyết khoa học dịch thuật đã hình thành từ đó với tiền đề: mỗi từ của một ngôn ngữ có thể được diễn tả bằng một từ, một ngữ đoạn của một ngôn ngữ khác tương ứng một trăm phần trăm.
Suy nghĩ nặng tính cách ngôn ngữ học rằng dịch thuật chỉ đơn thuần là sự chuyển tải nội dung từ một ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ dịch, cũng như việc coi trọng hình thức ngôn ngữ hơn nội dung chính là nguyên do khiến cho có nhiều văn bản không được lưu tâm đúng mức, cụ thể là những văn bản văn chương.
Nhận thức được giới hạn ấy, độc lập với dịch thuật văn chương, trong nội bộ dịch thuật khoa học đã xuất hiện một xu hướng mới: dịch thuật không còn được hiểu đơn giản là sự chuyển tải nội dung mà còn cả văn hóa. Sự đảm bảo tính giao lưu đã trở thành một điều kiện ắt có. Kết quả dịch thuật phải chứng minh được giá trị tương đương về tính giao lưu của văn bản gốc đối với văn bản dịch.
Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011
Đào-Duy-Anh - Hán-Việt từ-điển giản-yếu
Tác-giả: Đào-Duy-Anh
Link download: https://docs.google.com (file pdf, 43 MB) (Nhà-xuất-bản Văn-hóa Thông-tin, bản mới in lại năm 2005).
Chú ý! Sau khi bạn click vào link trên, thông-báo sau đây sẽ hiện-ra: "Sorry, we are unable to scan this file for viruses. The file exceeds the maximum size that we scan. Download anyway" . Bạn hãy click vào Download anyway để tải sách về.
Link dự-phòng: http://www.mediafire.com/?ngd9nwubmuuui94
Nhà-xuất-bản: IMPRIMERIE TIENG DAN
Năm xuất-bản: 1932
Số trang: 1204
Kích-thước: 15 x 22cm
Số quyển trên/1 bộ: 1
Hình-thức bìa: Bìa cứng
Nguồn sách: Tủ-sách gia-đình Nhà-sách Sông-Hương
Đọc sách online (bản scan sách cũ in năm 1932) tại địa-chỉ: http://www.songhuong.com.vn/main.php?cid=40,3&id=27&case=2&left=40,18&gr=2#
Thứ Hai, 25 tháng 4, 2011
Tham-khảo nguyên-tắc chuẩn-hoá thuật-ngữ khoa-học ở các nước
(Tạp-chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 5 (115) - 2005, trang 12 - Ngôn ngữ & Đời sống, 5 - 2008, trang 12)
Tác-giả: Nguyễn-Thị-Kim-Thanh
Thuật ngữ khoa học là một bộ phận từ ngữ quan trọng của hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới, đó là “những từ và cụm từ cố định để chỉ những khái niệm của một ngành khoa học nào đó, ngành sản xuất hay ngành văn hoá nào đó…”, “là bộ phận từ vựng biểu đạt các khái niệm khoa học, là thuộc tính của khoa học, kỹ thuật, chính trị, tức là những lĩnh vực của xã hội đã được tổ chức một cách có trí tuệ” (Nguyễn Như Ý, 1997, Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội), Vậy nên, chuẩn hoá thuật ngữ là một trong những nội dung chính của chuẩn hoá ngôn ngữ.
Thứ Hai, 24 tháng 1, 2011
Phương-châm trong việc tạo từ mới
- Tính dân tộc:
1.1 Thuần Việt :
Sử dụng những từ thuần Việt.
Ví dụ:
gourmet powder: bột ngọt hay vị tinh.
stomach: dạ dày hay bao tử.
1.2 Nho Việt:
Những từ Nho Việt do người Việt tạo ra, là đặc trưng riêng của Việt Nam.
Ví dụ:
stomach: bao tử. Nếu dịch sát nghĩa từ "bao tử", bao là cái bao, tử là chết; từ "bao tử" không có nghĩa gì trong tiếng Trung Hoa. Theo ngữ pháp Trung Hoa, họ nói ngược lại là "tử bao" dịch sát có nghĩa là "bao chết". Hơn nữ, từ "bao tử" còn mang một ý nghĩa triết lý trong đó.
Từ "vị tinh" ghi theo Hán tự (Chinese character) hoặc Nho tự là "味菁". Nếu phiên âm theo giọng đọc của tiếng Quảng Đông là "mì chính". Nếu đọc "味菁" theo âm Việt và ghi theo mẫu tự La-tinh thì từ Nho Việt là "vị tinh". Từ "vị tinh" thể hiện rõ nghĩa của từ là tinh chất của vị.
Please make yourself as home: xin đừng khách sáo (khách khí – 客氣), xin tự nhiên như ở nhà bạn . Từ "sáo" lột tả được nhiều ý nghĩa hơn là từ "khí" (氣). Hơn nữa, ta có những từ gần với nó như sáo ngữ, nói như sáo. - Tính khoa học
Nguyên-tắc tạo từ mới
Hán tự hoặc Nho tự được tạo ra theo sáu cách gọi là phép lục thư (六書).
- Tượng Hình (象形): căn cứ trên hình tượng của sự vật. Ví dụ:
Ghép một gạch ngang (一), một sổ thẳng (丨), hai nét phẩy xuống ở hai bên, tượng trưng một cây có cành ngang, rễ dọc, để ghi chữ Mộc "木", có nghĩa là "cây". - Chỉ Sự (指事) hay Biểu Ý (表意) (hay tượng sự, xử sự): Trông mà biết được, xét mà rõ ý. Ví dụ:
Chữ Bản (本), do ghép chữ Mộc (木) và thêm gạch ngang diễn tả ý nghĩa "gốc rễ".
Lấy nét ngang (一) làm mốc, phần (–) đứng ở trên mốc là (上) thượng, phần đứng ở dưới mốc là (下) hạ. - Hội Ý (會意) (hay tượng ý): Mỗi chữ có nhiều phần, mỗi phần có một nghĩa, hợp ý của hai chữ ấy lại để tạo ra một chữ mới với ý mới. Ví dụ:
Chữ Lâm (林) là rừng , do ghép hai chữ Mộc (木) tạo thành, rừng do nhiều cây hợp thành.
Chữ Cổ (古) là xưa, ngụ ý điều gì mà mười (十 Thập) miệng (口 Khẩu) đã nói đến là cũ, xưa rồi. - Hình Thanh (形聲), (hay tượng thanh, hài thanh): chiếm 80% toàn bộ chữ Hán. Mượn phần âm (声) của một chữ có sẵn rồi ghép vào một bộ (phần hình 形) chỉ ý nghĩa, để tạo ra chữ mới. Ví dụ:
Chữ Vị (味) trong "khẩu vị" do ghép bộ Khẩu (口) chỉ việc ăn hoặc nói, và chữ Vị (未) là "chưa" trong "chưa đến – vị lai" để chỉ cách phát âm.
Chữ Giang 江 là sông, gồm bộ Thuỷ (氵) để chỉ vật gì có liên quan đến nước (ý nghĩa) và chữ công (工) chỉ cách phát âm của chữ "江, Giang". Ghi chú: theo cách tạo từ này, lẽ ra phải đọc là "Giông" chứ không phải "Giang" vì nó lấy âm "ông" trong chữ "công, 工". Nếu thay âm "Gi" Việt cổ (?) hay Hán cổ (?) bằng âm "S" Việt hiện nay, chữ 江 ta đọc là "sông", nghĩa là sông (river) là hợp tình hợp lý nhất?! Trong 80% toàn bộ chữ Hán được tạo theo phương thức Hình Thanh, có bao nhiêu chữ thuộc loại này? Phần này để các bạn cũng như các nhà nghiên cứu suy nghĩ thêm về tính chính danh của cách gọi "từ Nho Việt" thay cho "từ Hán Việt". - Chuyển Chú (轉注): Dùng một chữ có sẵn, thay đổi hình dạng đi đôi chút, để đặt ra một chữ khác có nghĩa tương tự. Ví dụ:
Ghép bộ Thảo (cây cỏ) vào chữ Lạc (樂, vui vẻ) thành chữ Dược (藥) là thuốc
Chữ Lão (老) là già, thay đổi hình dạng đôi chút ta có Khảo (考) nghĩa là "sống lâu". - Giả Tá (假借): Mượn âm của một chữ có sẵn:
a. Biến đổi dấu giọng (thanh) của chữ ấy để tạo thành một chữ mới với nghĩa khác.
Ví dụ: 長 Trường: dài, 長 Trưởng: lớn.
b. Giữ nguyên thanh âm của một chữ nào đó, rồi gán thêm cho nó một nghĩa mới.
Ví dụ: 萬 Vạn, vốn có nghĩa là con bò cạp, nhưng lại dùng thêm nghĩa mới là mười ngàn.
Nhờ chữ quốc ngữ viết bằng mẫu tự La tinh, chúng ta không bị đóng khung trong phép "lục thư" trong việc tạo từ mới.
Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2011
Một·số vấn·đề về chuẩn·mực·hoá ngôn·ngữ: Tiếp·nhận từ của ngoại·ngữ trong quá·trình tiếp·xúc ngôn·ngữ
Chất liệu ngôn ngữ bao gồm chất liệu hình thức và chất liệu nội dung.
Thứ Sáu, 21 tháng 1, 2011
Quy-tắc chính-tả tiếng Việt và phiên-chuyển tiếng nước ngoài
I. Chính tả tiếng Việt
Hiện nay, trong các trường học và trong sách giáo khoa phổ thông đã thống nhất cách viết tiếng Việt theo chính tả truyền thống. Tuy nhiên, trong sách báo và giữa các nhà xuất bản vẫn chưa có sự thống nhất, nhất là việc phiên chuyển tiếng nước ngoài và chưa có văn bản quy định của Nhà nước.
Trong lúc chờ đợi quy định thống nhất của Nhà nước, được phép của thủ tướng chính phủ (Công văn số 4: 1635/VPCP-KG ngày 27 tháng 4 năm 2000) và thực hiện nghị quyết của Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam trong Hội nghị toàn thể ngày 3-4.5.2000, sau khi lấy ý kiến của các uỷ viên Hội đồng và được Ban thường trực thông qua, chủ tịch Hội đồng ban hành quy tắc chính tả và phiên chuyển tiếng nước ngoài để áp dụng thống nhất trong bộ Từ điển bách khoa Việt Nam và các công trình khoa học của Hội đồng.
Về bản dự thảo Quy định cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài trong các văn bản quản lí nhà nước
Sáng ngày 18 tháng 5 năm 2006, tại trụ sở Viện Ngôn ngữ học 36 Hàng Chuối - Hà Nội, Phó Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - PGS.TS Trần Đức Cường - đã chủ trì buổi họp báo giới thiệu bản Dự thảo Quy định cách viết cách đọc tên riêng nước ngoài trong các văn bản quản lí Nhà nước và việc công bố Dự thảo này trên báo chí để tranh thủ ý kiến góp ý. Tới dự có đại diện của Bộ Văn hoá và Thông tin, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, các báo Nhân Dân, Lao Động, Tiền Phong, Người đại biểu nhân dân,... Để giúp cho mọi người có thể tham gia góp ý kiến cho bản Dự thảo, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống xin giới thiệu bài viết của GS.TS Nguyễn Văn Khang về nội dung có liên quan đến bản Dự thảo này.