Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính·tả tiếng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính·tả tiếng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2016

D và GI phát âm khác nhau

Người dân Bắc Trung Bộ (các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) phát âm D và GI khác nhau.
giáo dục /zaw˧˥ juk˧ˀ˩ʔ/

/z/ như trong zoo tiếng Anh giọng Mỹ http://dictionary.cambridge.org/dictionary/english/zoo
j như trong just, hay you tiếng Anh giọng Mỹ http://dictionary.cambridge.org/dictionary/english/just

Giọng nói Việt từ bắc vào nam



Tiếng nói, giọng nói là phản ánh bản sắc của mỗi vùng miền trong cùng một đất nước. Thông qua giọng nói người ta có thể phân biệt được người nói ở vùng quê nào và là tín hiệu đầu tiên để những người đồng hương nhận ra nhau. Có thể không được trau chuốt, mượt mà, nhưng với tiếng nói, giọng nói chân quê của những người cùng một vùng miền lại cảm thấy gần gũi và gắn bó với nhau hơn. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu được điều đó.



Giọng Miền Bắc:

D và GI phát âm như nhau /z/

Hiện tượng từ vựng tiếng Việt âm đầu "d - gi"

 - 1. Hệ thống chữ viết tiếng Việt ngày nay là một hệ thống chữ viết có nhiều ưu điểm, mà ưu điểm lớn nhất là một thứ chữ viết ghi âm vị, ghi các từ theo nguyên tắc ngữ âm học. Đó là một thứ chữ đơn giản, dễ học, dễ nhớ.

Luật hỏi ngã trong tiếng Việt

Trong tiếng Việt chúng ta sử dụng tất cả 1270 âm tiết với dấu hỏi hoặc với dấu ngã, trong đó có 793 âm tiết (chiếm 62%) viết dấu hỏi, 477 âm tiết (38%) viết dấu ngã. Việc nắm được quy luật dấu hỏi và dấu ngã của lớp từ láy và lớp từ Hán Việt sẽ giúp ta giảm được nhiều lỗi chính tả.

I.  Từ láy và từ có dạng láy: 

•  Các thanh ngang (viết không có dấu) và sắc đi với thanh hỏi, ví dụ như: dư dả, lửng lơ, nóng nẩy, vất vả...

•  Các thanh huyền và nặng đi với thanh ngã, ví dụ như: tầm tã, lững lờ, vội vã, gọn ghẽ...

Quy tắc từ láy chỉ cho phép viết đúng chính tả 44 âm tiết dấu ngã sau đây:

Thứ Năm, 5 tháng 7, 2012

Tiếng Việt: Có còn trong sáng?

Tác-giả: PGS. TS. Phạm-Văn-Tình


Kể từ khi cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát động công cuộc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (Tạp chí Học tập, s. 4-1966) cho đến nay đã tròn 44 năm. Phong trào này đã được toàn xã hội, đặc biệt là giới Việt ngữ học hưởng ứng với một “lộ trình” lúc lên, lúc xuống, lúc rầm rộ, lúc âm ỉ… Nhưng chưa bao giờ vấn đề giữ gìn và bảo vệ tiếng Việt lại được dư luận quan tâm nhiều như thời gian vừa qua.




Tiếng Việt đang ở đâu?

Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

Chuyện viết tiếng Việt: Đừng vội vàng quá (Trao đổi với tác giả Hoàng Hồng Minh)

Tác-giả: Ths Đào-Tiến-Thi

(Nhà-xuất-bản Giáo-dục Việt-Nam)
Trong bài Chuyện viết tiếng Việt của tác giả Hoàng Hồng Minh (HHM) trên tạp chí Tia sáng ngày 16-08-2011[i], ngoài việc đặt ra vấn đề nên đưa thêm mấy chữ cái (ký tự) F, J, W, Z vào bảng chữ cái tiếng Việt hay không (điều mà dư luận có ồn lên khoảng tháng nay), tác giả còn bàn thêm hai vấn đề của tiếng Việt: viết tên riêng nước ngoài và viết các từ ghép, từ láy (HHM gọi chung là “từ kép”) trong tiếng Việt.

Tôi xin được trao đổi một số ý kiến với tác giả.

Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011

Tham·luận của GS Hoàng·Tụy tại Hội·nghị “Vấn·đề cải·tiến chữ quốc·ngữ” tại Hà·Nội, 1960

(Đọc tại Hội·nghị bàn về "Vấn·đề cải·tiến chữ quốc·ngữ" được tổ·chức tại Hà·Nội, năm 1960. Lúc ấy, GS. Hoàng·Tụy phụ·trách ngành Toán, trường Đại·học Tổng·hợp Hà·Nội)
Vài nét về GS. Hoàng·Tụy



- Từ năm 1961-1968, là chủ nhiệm khoa toán của Đại học Tổng hợp Hà Nội, là viện trưởng Viện Toán học VN từ năm 1980-1989.

- Năm 1964, phát minh ra phương pháp "lát cắt Tụy" (Tuys cut), và được coi là cột mốc đầu tiên đánh dấu sự ra đời của một chuyên ngành toán học mới: lý thuyết tối ưu toàn cục (global optimization).

- Tháng 8-1997, Viện Công nghệ Linkôping (Thụy Điển) đã tổ chức một hội thảo quốc tế với chủ đề "Tìm tối ưu từ địa phương đến toàn cục", được tổ chức để tôn vinh GS Hoàng Tụy, "người đã có công trình tiên phong trong lĩnh vực tối ưu toàn cục và qui hoạch toán học tổng quát", nhân dịp ông tròn 70 tuổi.

- Tháng 12-2007, một hội nghị quốc tế về "Qui hoạch không lồi" được tổ chức ở Rouen, Pháp để ghi nhận những đóng góp tiên phong của GS Hoàng Tụy cho lĩnh vực này nói riêng, và cho ngành tối ưu toàn cục nói chung nhân dịp ông tròn 80 tuổi.

Mục đích cải tiến chữ quốc ngữ là làm cho nó được khoa học hơn, tiện lợi hơn. Ở đây, tôi xin đứng về phương diện một người làm công tác khoa học tự nhiên góp vài ý kiến nhỏ về vấn đề này.

Nói thêm về chữ i và y trong chính-tả tiếng Việt

Tác-giả: Đoàn-Xuân-Kiên


1. Thỉnh thoảng, trên các trang báo đó đây thường có một số độc giả nêu thắc mắc về lối viết chữ i và y trong chính tả tiếng Việt hiện nay. Chẳng hạn trong mục “Bạn Đọc Viết” trong tập san Thế Kỷ 21 số 111 (tháng 7.98) có đăng ý kiến một độc giả về chuyện này. Đại khái các ý kiến có thể tóm trong mấy ý như sau: (1) viết i trong một số trường hợp “làm vướng mắt người đọc”; (2) cách viết đổi y thành i là sự cưỡng bức từ nhà nước Hà Nội đối với miền Nam; (3) viết i trong một số trường hợp là cải cách hay một cách viết cho “lạ” để độc giả chú ý đến bài viết hoặc tờ báo. Để trả lời những thắc mắc nêu trên, trước nay chúng ta thường nghĩ đơn giản như ban biên tập tạp chí Thế Kỷ 21, rằng: (1) tiếng Việt có thể chấp nhận cả I và Y trong một số trường hợp; (2) “và cũng không có luật chính tả nào quy định chữ nào thì phải dùng I, chữ nào phải dùng Y để diễn tả âm I”; (3) nhưng có một “trường phái” muốn thống nhất cho tiện; (4) “công việc vận động này đã có từ ba bốn thập niên, nhưng chưa tới đâu, vì tuy hợp lý nhưng không thắng được thói quen”. Nói chung thì cho đến nay, người mình thường xem chuyện “i dài i ngắn” chẳng qua cũng chỉ là thứ nhiễu sự chữ nghĩa cuả mấy thầy đồ gàn.


Trong một bài viết gần đây về vấn đề chính tả chữ i và y trong tiếng Việt [1] chúng tôi có xem lại vấn đề này để thử tìm hiểu nguyên nhân hiện tượng nhiều lối viết chữ i và y. Lần dò theo một loạt từ điển biên soạn trong thế kỉ XVII, XVIII và XIX, chúng tôi nhận thấy nguyên do của sự kiện lộn xộn trong cách viết hai chữ i và y trong tiếng Việt trước nay là từ sự bất nhất của những nhà sáng chế ra chữ quốc ngữ và các nhà soạn từ điển sau đó. Từ nguyên nhân ban đầu đó dẫn đến hiện tượng sử dụng tuỳ tiện các lối viết khác nhau do ảnh hưởng của những bộ sách khuôn mẫu khác nhau. Và cuối cùng, nhìn sang kinh nghiệm ở một số quốc gia khác, chúng tôi cho rằng sở dĩ hiện tượng bất nhất vẫn tồn tại là vì nước mình thiếu một chính sách ngôn ngữ nghiêm chỉnh của các nhà nước Việt Nam qua nhiều thời kì khác nhau.


Bài viết ngắn này xin góp thêm vài lời về một vấn đề nhỏ và cũ, nhưng dường như chưa được làm sáng tỏ cho lắm. Chúng tôi muốn nhìn lại vấn đề để thử trả lời câu hỏi: “tại sao phải sửa đổi một vài lối viết (chứ không nhất loạt thay thế) chữ i và y ?”

Chữ quốc·ngữ qua những biển·dâu

Tác·giả: Đoàn·Xuân·Kiên

1.         Chữ viết ra đời rất muộn màng so với tiếng nói của một dân tộc.  Con người đã truyền thông với nhau bằng tiếng nói từ khi họ kết tập với nhau thành những tập đoàn chung sống.  Nhưng chỉ là từ khi một thứ tiếng nói đã được sử dụng thật thuần thục, sản sinh ra nhu cầu ghi lại những ý tưởng lời nói của mình, khi ấy chữ viết mới thật sự ra đời.  Thật ra, khó có thể nói là chữ viết đã ra đời "nhất thành bất biến" như chúng ta thấy ngày nay.  Lịch sử chữ viết đã trải qua bao phen biến đổi, từ hình thức thắt nút dây như đã được ghi nhận trong một câu ở Kinh Dịch: "Thượng cổ kết thằng nhi trị…" đến xâu chuỗi vỏ sò có màu sắc khác nhau như người da đỏ Iroquois, đều là những hình thức kí hiệu để ghi lại ý tưởng người xưa muốn truyền đạt cho nhau, hoặc đơn giản là để ghi dấu lại cho nhớ.  Những hình thức đó đều là những dạng mở đầu do con người mò mẫm mà có được.  Những hình thức chữ viết bằng đồ vật như vừa nói ở trên là những gì sơ khai nhất của chữ viết (hình 1).  Tiến lên một bước nữa là hình thức chữ viết bằng hình vẽ mà ta còn có thể thấy trong các văn bản cổ trên đá của người cổ Ai cập từ hơn 4000 năm trước, hoặc là những vẽ trên đồ vật bằng đất nung của người Sumer cũng khoảng thời kì hơn 3000 năm trước (hình 2).

Thứ Hai, 24 tháng 1, 2011

Vấn·đề tiếng đồng·âm trong Việt·ngữ và dấu nối trong tên họ

Tác·giả: Lê·Ngọc·Trụ

(Tạp·chí Văn số 25, Chuyên·mục Giải·đáp thắc·mắc bạn đọc, ngày 1 tháng 1 năm 1965)

* HỎI : (bạn Trương-Bạch-Mai, Long-thành.)
1.) Vấn-đề tiếng đồng-âm trong Việt-ngữ : « Va, Da, Gia » có thể là những tiếng đồng-âm không ? Tôi cho những cặp tiếng sau đây là đồng-âm có đúng không : ngan và ngang, tất và tấc, lòng và lồng? Hay tiếng đồng-âm chỉ có thể là những tiếng như hiên trong « hiên-ngang » và hiên trong « mái hiên ».
2.) Dấu nối trong tên họ. Chẳng hạn như tên tôi, theo ý-kiến của ông, nên viết theo một trong những lối sau đây : Trương-Bạch-Mai, Trương Bạch-Mai. Lối sau, riêng theo ý tôi, nó không có một liên-lạc gì giữa họ và tên. Và tôi cũng không đồng ý khi người ta cho rằng chỉ có dấu nối giữa những tiếng trong tên ghép hoặc chữ ghép, chẳng hạn : Nguyễn-Phúc Ánh, Trần thị Kim-Chi.

Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2011

Một·số vấn·đề về chuẩn·mực·hoá ngôn·ngữ

Tác·giả: Hoàng·Tuệ
(In trong tạp·chí «Ngôn ngữ", số 3 và 4 (năm 1979), trang 137–151)

Qua các hội·nghị chuẩn·mực·hoá chính·tả và thuật·ngữ (1978–1979), có thể rút ra một·số vấn·đề chung, như các vấn·đề trình·bày dưới đây.
    1. Chuẩn mực hoá ngôn ngữ và văn hoá mới, con người mới
    2. Tiếp nhận từ của ngoại ngữ trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ
    3. Nhu cầu mượn từ
    4. Đồng hoá từ mượn
    5. Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
    6. Nhất quán và không nhất quán
Nguồn: http://ngonngu.net/index.php?p=166

Một·số vấn·đề về chuẩn·mực·hoá ngôn·ngữ: Chuẩn·mực·hoá ngôn·ngữ và văn·hoá mới, con·người mới

Tác·giả: Hoàng·Tuệ
(In trong tạp·chí «Ngôn ngữ", số 3 và 4 (năm 1979), trang 137–151)

Đây là vấn đề về quan điểm tư tưởng và quan điểm chính sách trong công tác chuẩn mực hoá ngôn ngữ nói chung. Thiết tưởng vấn đề này đáng được suy nghĩ nhiều nhất.

Trước tiên, cần chú ý tới một sự tổng kết của lịch sử: kẻ bành trướng tràn tới đâu là đem theo ngôn ngữ của chúng tới đó làm công cụ thống trị; và kẻ bị thống trị đấu tranh bảo vệ bảnn ngữ là góp phần rất quan trọng vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của đất nước. Tiếng Việt là một chứng minh cho thực tế lịch sử đó và cho tinh thần đấu tranh của dân tộc ta. Cho nên, hiện nay cũng như trong tương lai, "giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" là một công tác luôn luôn có ý nghĩa chính trị sâu sắc, vì bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc là nhiệm vụ lâu dài của nhân dân ta.

Thứ Sáu, 21 tháng 1, 2011

Quy-tắc chính-tả tiếng Việt và phiên-chuyển tiếng nước ngoài

Tác-giả: Chủ-tịch Hội-đồng Quốc-gia Chỉ-đạo Biên-soạn Từ-điển-bách-khoa Việt-Nam


I. Chính tả tiếng Việt
Hiện nay, trong các trường học và trong sách giáo khoa phổ thông đã thống nhất cách viết tiếng Việt theo chính tả truyền thống. Tuy nhiên, trong sách báo và giữa các nhà xuất bản vẫn chưa có sự thống nhất, nhất là việc phiên chuyển tiếng nước ngoài và chưa có văn bản quy định của Nhà nước.
Trong lúc chờ đợi quy định thống nhất của Nhà nước, được phép của thủ tướng chính phủ (Công văn số 4: 1635/VPCP-KG ngày 27 tháng 4 năm 2000) và thực hiện nghị quyết của Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam trong Hội nghị toàn thể ngày 3-4.5.2000, sau khi lấy ý kiến của các uỷ viên Hội đồng và được Ban thường trực thông qua, chủ tịch Hội đồng ban hành quy tắc chính tả và phiên chuyển tiếng nước ngoài để áp dụng thống nhất trong bộ Từ điển bách khoa Việt Nam và các công trình khoa học của Hội đồng.

Về bản dự thảo Quy định cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài trong các văn bản quản lí nhà nước

Tác-giả: Nguyễn-Văn-Khang


Sáng ngày 18 tháng 5 năm 2006, tại trụ sở Viện Ngôn ngữ học 36 Hàng Chuối - Hà Nội, Phó Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - PGS.TS Trần Đức Cường - đã chủ trì buổi họp báo giới thiệu bản Dự thảo Quy định cách viết cách đọc tên riêng nước ngoài trong các văn bản quản lí Nhà nước và việc công bố Dự thảo này trên báo chí để tranh thủ ý kiến góp ý. Tới dự có đại diện của Bộ Văn hoá và Thông tin, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, các báo Nhân Dân, Lao Động, Tiền Phong, Người đại biểu nhân dân,... Để giúp cho mọi người có thể tham gia góp ý kiến cho bản Dự thảo, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống xin giới thiệu bài viết của GS.TS Nguyễn Văn Khang về nội dung có liên quan đến bản Dự thảo này.

Quy-ước chính-tả tạm-thời trong công-nghệ thông-tin

Đối với CNTT, việc bảo đảm một cách viết thống nhất là rất quan trọng. Trong tiếng Việt, đã nhiều lần chúng ta phải giải quyết các vấn đề nảy sinh khi thiếu sự thống nhất:




  • Hơn 50 bảng mã tiếng Việt khác nhau, đến mức Đại học Bách Khoa TP.HCM viết một công cụ để sinh phông chữ theo bất kì bảng mã nào. Một sự lãng phí vô ích, thay vì 1 bộ mã, chúng ta dùng đến 50. Cũng may cuối cùng có Unicode.

  • Dấu tiếng Việt. Lúc trước chúng ta dùng tiếng Việt không dấu, sau đó là VIQR, VIQR* và bây giờ là tiếng Việt có dấu đầy đủ, với bảng 134 kí tự có dấu.


Hiện tại vẫn có nhiều điểm chưa thống nhất trong chính tả tiếng Việt. Nguyên do là hoặc đã có quy tắc chung nhưng người viết không nắm, hoặc có nhiều quy tắc khác nhau và mỗi người chọn cho mình một cách riêng. Mục đích của bài viết này nhằm giải quyết cả hai vấn đề này:


  • Nếu có quy tắc chung, sẽ nói rõ quy tắc này.

  • Nếu có nhiều quy tắc cùng tồn tại, sẽ phân tích sơ lược và chọn ra một quy ước riêng cho chúng ta.

Một·số vấn·đề về chuẩn·mực·hoá ngôn·ngữ: Ngôn·ngữ nói và ngôn·ngữ viết

Tác·giả: Hoàng·Tuệ
Vấn đề này rất rộng, nếu bàn tới các khác nhau giữa nói và viết ở tất cả các mặt; nên ở đây chỉ trình bày những điều có liên quan tới cải tiến chữ viết và chuẩn mực hoá chính tả.

Ngày xưa, trong truyền thống ngữ văn học thì văn bản là đối tượng nghiên cứu, và lời nói, tức là ngôn ngữ nói, không thể coi là có giá trị để nghiên cứu như ngôn ngữ viết được. Quan niệm ấy có lí do: ngôn ngữ viết tức là ngôn ngữ đã thành văn chương, thành những tác phẩm biểu hiện cái hay, cái đẹp, cái tinh hoa đã có giá trị định hình của một ngôn ngữ; ngôn ngữ thì biến dộng, cho nên rất dễ trở thành "pha tạp", "hư hỏng". Vì thế, trước đây, sự chuẩn mực hoá cũng dựa trên ngôn ngữ viết để quy định cái đúng, cái sai. Như vậy, mặt chữ có uy thế hơn hẳn mặt âm. Vả lại, trong đời sống trước đây thì ở đâu sách cũng là công cụ chủ yếu của sự truyền đạt tư tưởng, văn hoá. Vai trò quan trọng như vậy của sách cũng là vai trò quan trọng của mặt chữ.

Sự chuyển biến lớn trong quan niệm về giá trị của mặt chữ đã xảy ra với ngôn ngữ học hiện đại: không, ngôn ngữ nói mới là cái cơ bản, và mặt chữ chỉ để biểu hiện mặt âm mà thôi. Mặt chữ còn nguy hiểm ở chỗ nó gây ra nhận thức sai lạc về ngôn ngữ. Quả nhiên, trong phạm vi nghiên cứu ngôn ngữ, đặc biệt về mặt ngữ âm lịch sử, nếu lấy mặt chữ làm căn cứ thì sai lệch là khó tránh, và cũng khó xử lí, theo yêu cầu chuẩn mực hoá, đối với những biến đổi ngữ âm đang diễn ra.

Thứ Ba, 18 tháng 1, 2011

Chữ·viết tiếng Việt - Đặc·điểm và một·vài vấn·đề

Tác·giả: Giáo·Hoàng·Phê

I. Đặc·điểm chữ·viết tiếng Việt

1. Tiếng Việt là một ngôn ngữ âm tiết tính. Trong tiếng Việt ranh giới âm tiết trùng với ranh giới hình vị **. Người bình thường sử dụng tiếng Việt chỉ có ý thức về âm tiết, gọi là tiếng, nói chung không có ý thức về âm vị. Và cũng chỉ có ý thức về hình vị, gọi là chữ (ví dụ, chữ quốc, chữ gia, chữ nước, chữ nhà), nói chung không có ý thức về từ. Phản ánh đặc điểm cơ bản nói trên của tiếng Việt, chính tả tiếng Việt đơn thuần là chính tả âm tiết. Nếu xét ở cấp độ âm vị thì có rất nhiều điều bất hợp lí, nhưng nếu xét ở cấp độ âm tiết thì nói chung có sự đối ứng chặt chẽ giữa ngữ âm và chữ viết, có quan hệ một đối một giữa âm tiết ngữ âm và âm tiết chữ viết, chỉ trừ một vài trường hợp ngoại lệ. Đây chính là ưu điểm lớn nhất của chữ viết tiếng Việt.

Thứ Năm, 13 tháng 1, 2011

Việt-ngữ hỏi-ngã tự vị

Tác-giả: Đinh-Sĩ-Trang

Tên sách: "Việt ngữ hỏi-ngã tự vị"

Link tải sách: doc.google

Định-dạng file: PRC

Chương-trình dùng để đọc sách: Bạn phải dùng chương-trình đọc file PRC thì mới đọc được sách này, link tải chương-trình: http://www.mobipocket.com/en/downloadsoft/DownloadReaderDesktop.asp)

Mục-lục:

1. Bảy điều-luật về dấu hỏi ngã

2. Cách tra chữ trong tự vị này

3. Tài-liệu tham-khảo

(Nguồn: http://www.e-thuvien.com/forums/showthread.php?p=227162)

Thứ Tư, 12 tháng 1, 2011

Tiếng Việt - Vài vấn·đề chữ·viết

Tác·giả: Dũng Vũ

(Trích từ Thử bàn về tiếng Việt, Dung Vu, 1999, Stuttgart (bổ sung và hiệu đính))

Trong mấy thập niên qua, nhiều người Việt sống ở miền Nam hoặc ở hải ngoại đã lấy làm lạ về cách dùng chữ cái “i” thay cho “y” trong chữ Việt. Hiện tượng này khá phổ biến, nhất là ở miền Bắc. Ví dụ, “kỳ” được viết thành “kì”, “quốc kỳ” thành “quốc kì”.

Sự thay đổi “y” thành “i” đã gây nhiều tranh cãi. Người thì bảo: “Thúy” không thể thay thế bằng “thúi” được. Người khác bèn biện luận: Ðó là trường hợp ngoại lệ. Thử tưởng tượng, thay vì viết “kỹ sư”, ta có thể viết thành “kĩ sư”, bởi tại sao xưa nay người ta không viết “bác sỹ” mà là “bác sĩ”. “y” và “i” giống nhau, chỉ khác “i” ngắn, “i” dài. Bên kia liền chống lại: Thế thì “kỳ” có nghĩa như “cờ” sẽ bị lẫn lộn với “kì” như “kì cục”. Nghe hai bên tranh cãi, người đứng nghe phát bực: Thôi! Lôi thôi quá, “i ngắn” với “i dài”. Sao không đổi luôn “q” thành “c”, viết “quốc” thành “cuốc” cho tiện. “k” phát âm cũng như “c”, bỏ “k” luôn, viết “quốc kỳ” thành “cuốc cì”.

Vậy là “quốc” (nước) hóa thành cái cuốc. “Kỳ” (cờ) nghe như “kì cọ”, “kì cục”.

Chưa hết. Nhiều người còn muốn thế “gi” bằng “d”. Ðiều này có lẽ không dễ dàng như thay thế “y” bằng “i”. “Gia” đâu thể thế bằng “da” được. “Gia thuộc” khác “da thuộc” chứ. Lời phàn nàn có lý. Người phàn nàn nếu bảo thủ, không nói làm gì, nhưng nếu cấp tiến và sẵn sàng chấp nhận sự cải tiến cách viết, thì cũng chẳng biết phải theo quy tắc nào.

Cực đoan hoặc mỉa mai hơn nữa là những ý kiến cho rằng, thay thế vậy vẫn chưa có “zì” triệt để. Bỏ “gi”, “d” đi, xài “z” thôi cho “zễ zùng”. Ý nghĩ này xem ra càng khó được xã hội chấp nhận rồi cũng đi vào quên lãng. Cuối cùng chỉ còn thấy vài ba trường hợp, như chêm “z” vào một cái tên cho có vẻ Tây phương, “Dzũng Ðakao”, hoặc viết theo cách giả giọng người Nam “dzô”, “dzui”, “dzìa”, ...

Cùng một hiện tượng tương tự là đổi “ph” bằng “f”. “Em tên Fượng, không phải Phượng”. “Fương fáp” thay vì “phương pháp”, “fạm fòng” thay vì “phạm phòng”, “fung fí” thay vì “phung phí”, ...“fởn fơ”, “fì fò”, “fì fèo”. Kiểu thế này hẳn phải làm dân Âu châu phục dân Việt sát đất. Dân Việt nhập chữ cái La tinh của Âu châu vào mà dám cải tiến táo bạo vậy, còn chúng ta, dân Âu châu, thực là chậm chạp; sao không bắt chước dân Việt, thay thế hết “ph” bằng “f”, biến “philosophy” thành “filosofy”, “physic” thành “fisic”, “PhD” thành “FD” ...?

Vậy mà chẳng ai làm. Và người Việt cũng không hiểu tại sao người ta không chịu làm.

Không ai dám phủ nhận bất cứ cố gắng nào làm cho tiếng Việt ngày càng tốt đẹp. Nhưng làm sao cho có bài bản và hiệu quả? Thử nhìn vào một kinh nghiệm: ví dụ tiếng Ðức.

Thứ Hai, 10 tháng 1, 2011

Cái thắc·mắc ngàn đời của chữ Việt

Tác·giả: Bác·sĩ  Nguyễn Hy Vọng M.D.

-t hay là –c ? , nhiều người Trung và Nam không viết cho đúng, vì họ đều phát âm với – c mà thôi.! dấu hỏi hay dấu ngã, nhiều người Trung và Nam [65 % dân Việt] cũng không viết đúng được.

Đó không phải là lỗi của họ, đó là lỗi của cái chữ viết đã không viết theo đúng như nói nguyên tắc vàng ngọc của chữ viết là phải viết cho đúng với phát âm, mà không có một ngôn ngữ nào trên thế giới theo đúng cả,  "trừ ra chữ viết Tây ban nha là khá nhất “ se habla como se escriba”  “ nói cũng y hệt như viết, còn Pháp Anh Mỹ đều viết tùm lum tà la hết ! Pháp thì đọc một âm mà viết  nhiều cách:  cinq, ceint, saint, sein.