Tác·giả: GS. TS. Nguyễn·Thiện·Giáp
(Khoa Ngôn·ngữ·học, Trường Đại·học KHXH&NV, Đại·học Quốc·gia Hà·Nội)
Kỷ·yếu hội·thảo Nghiên·cứu và đào·tạo khoa·học xã·hội và nhân·văn ở Việt·Nam thành·tựu và kinh·nghiệm, năm 2010
Một trong những lí do gây nên cảnh "phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam" là cách xác định đơn vị cơ bản của tiếng Việt chưa thống nhất. Sau 65 năm nhìn lại, chúng tôi rút ra một số nhận xét chính như sau:
1. Cách xác định thế nào là "có nghĩa"chưa thống nhất
Khi xác định từ và hình vị tiếng Việt, nhà Việt ngữ học nào cũng nêu tiêu chuẩn phải "có nghĩa", nhưng không mấy ai nói rõ thế nào là "có nghĩa". Có lẽ chỉ Nguyễn Kim Thản, Đỗ Hữu Châu và Nguyễn Tài Cẩn trực tiếp hoặc gián tiếp bàn đến vấn đề này. Nguyễn Kim Thản không trực tiếp giải thích thế nào là "có nghĩa", nhưng khi nói về tính hoàn chỉnh về nghĩa của từ, ông viết: "cà chua định tên cho một đối tượng khách quan duy nhất: một thứ quả thuộc họ cà, khi chín thì đỏ, dùng để làm thức ăn. Máy nổ cũng định tên cho một công cụ duy nhất chạy bằng hơi đốt. Xe bò chỉ một vật thể duy nhất, một thứ công cụ vận tải, đóng bằng gỗ, có hai bánh, hai càng; cho nên biểu thị một ý nghĩa ngữ pháp duy nhất là kết quả và làm từ liên lạc giữa đoạn câu nguyên nhân và đoạn câu kết quả". Qua cách phân loại hình vị về mặt ý nghĩa của Đỗ Hữu Châu, chúng ta có thể hiểu quan niệm của ông về "có nghĩa"là thế nào. Ông viết: "Hình vị thực như nhà, áo, xe, máy, đường, trời, nước, sơn (núi), thủy, hỏa tức là những hình vị mà ý nghĩa của chúng liên hệ với những sự vật, hiện tượng có thể hình dung được hay nhận thức được một cách cụ thể. Hình vị hư như nhưng, rất, đã, sẽ, đang, nếu, thì, mà,…là những hình vị mà ý nghĩa thường chỉ quan hệ hoặc hình thái – tức những biểu hiện của sự vật, hiện tượng hoặc chỉ cách nói năng (các hành vi ngôn ngữ), chỉ quan hệ giao tiếp – hết sức chung và trừu tượng".
Diễn giải về nghĩa như trên không sai, nhưng nếu căn cứu vào đó để nhận diện từ hoặc hình vị thì không phải bao giờ cũng làm được. Khi tiếp xúc với các từ ngữ nghề nghiệp và đặc biệt là các thuật ngữ chuyên môn xa lạ đối với mình, chúng ta sẽ gặp hàng loạt từ mà ta không biết nghĩa. Những tiếng Hán Việt vốn có nghĩa, nhưng đối với những người không có kiến thức Hán học thì việc nhận thức nghĩa của chúng không phải là chuyện dễ dàng.
Ý thức được những khó khăn này, Nguyễn Tài Cẩn đã xác định ý nghĩa một cách khác. Theo ông, "tiếng có nghĩa phải là loại tiếng xuất hiện lặp đi lặp lại nhiều lần ở trong nhiều tổ hợp khác nhau". Ông viết:
"a) Tiếng có nghĩa là loại tiếng có thể làm thành tố của từ hai tổ hợp trở lên.
b) Tiếng vô nghĩa là loại tiếng chỉ xuất hiện trong một tổ hợp duy nhất (a trong a-xit và a trong a-pa-tit phải được xem như là những tiếng khác nhau về mặt ngữ pháp)".
Rõ ràng, cách làm của Nguyễn Tài Cẩn khách quan, khoa học hơn. Tuy nhiên, do máy móc áp dụng tiêu chuẩn này nên Nguyễn Tài Cẩn đã coi những tiếng như dãi trong dễ dãi, cộ trong xe cộ là những tiếng vô nghĩa.
Những người chủ trương trong tiếng Việt có hình vị nhỏ hơn âm tiết đã dựa vào sự lặp lại của bộ phận nào đó của âm tiết. Như ta biết, âm tiết của tiếng Việt tương đương với âm vị của các ngôn ngữ Ấn Âu. Do đó, âm tố hay yếu tố ngữ âm nhỏ hơn âm tiết trong tiếng Việt không thể có được tư cách là đơn vị ngữ âm độc lập bên ngoài âm tiết. Nếu như trong các ngôn ngữ Ấn Âu, âm vị có thể tự thân dùng làm đơn vị mang nghĩa, chẳng hạn, и "và", в "ở, trong", к "về phía, tới", с "từ"của tiếng Nga, thì trong tiếng Việt, bộ phân âm tiết không thể ngữ nghĩa hóa một cách độc lập. Những từ tiếng Việt như: u, ư, e, ê thoạt nhìn tưởng như có hình thức của một âm vị, nhưng kì thực đó là những âm tiết mang thanh điệu nhất định. Không chú ý đến những đặc điểm trên đây của tiếng Việt, một số nhà nghiên cứu cố vạch đường ranh giới hình vị đi qua âm tiết, do đó không tránh khỏi những mâu thuẫn nội tại và còn kéo theo nhiều điều tắc rối, phức tạp, không cần thiết.
2. Cách xác định từ chưa nhất quán, chưa hợp lí, chưa phù hợp với thực tế