Thứ Ba, 24 tháng 5, 2011

Từ-vựng

Người-dịch: Nguyễn-Tiến-Hải


Bài-viết gốc: http://en.wikipedia.org/wiki/Vocabulary


Cập-nhật: ngày 11 tháng 07 năm 2010.


Từ vựng hay vốn từ, kho từ vựng của một người là tập hợp các từ trong một ngôn ngữ mà người đó quen thuộc (biết tới). Vốn từ vựng thường xuyên tăng lên theo tuổi tác, và là công cụ cơ bản và hữu dụng trong giao tiếpthu nhận kiến thức. Người ta phân biệt hai loại kho từ vựng là chủ động và bị động. Kho từ vựng chủ động bao gồm các từ được sử dụng trong văn nói và văn viết. Kho từ vựng bị động bao gồm các từ mà một người có thể nhận ra lúc đọc hoặc lúc nghe, nhưng không sử dụng chúng trong văn nói hoặc viết. Kho từ vựng bị động nhiều hơn kho từ vựng chủ động một vài lần.

Giới-từ

Người-dịch: Nguyễn-Tiến-Hải


Bài gốc: http://en.wikipedia.org/wiki/Preposition_and_postposition


Cập-nhật: ngày 10 tháng 06 năm 2010.


Trong ngữ pháp, giới từ (tiếng Anh: preposition) là một bộ phận lời nói giới thiệu một giới ngữ. Ví dụ, trong câu "The cat sleeps on the sofa" (Con mèo ngủ trên ghế sofa), từ "on" là một giới từ, giới thiệu giới ngữ "on the sofa". Trong tiếng Anh, các giới từ được dùng phổ biến là "of" (của, thuộc, về,...), "to" (hướng tới, đến, đối với,...), "in" (trong, ở trong,...), "for" (cho, dành cho,...), "with" (với) và "on" (trên, lên,...). Một giới từ được đặt vào câu sẽ chỉ ra mối quan hệ giữa những điều được đề cập trong câu ấy.


Đôi khi các nhà ngôn ngữ học phân biệt các giới từ đứng trước (tiếng Anh: preposition), đứng sau (tiếng Anh: postposition) và bao quanh một ngữ (tiếng Anh: circumposition). Cả ba loại bộ phận của câu nói này được gọi chung là adpositions. Trong ngôn ngữ kĩ thuật hơn, một giới từ là một thành phần, một cách cơ bản, kết hợp cú pháp với một ngữ và chỉ rõ ngữ đó nên được diễn dịch như thế nào trong bối cảnh xung quanh. Một số nhà ngôn ngữ học sử dụng từ "preposition" (giới từ) thay cho "adposition" cho cả ba trường hợp.[1] Trong bài này, từ đây về sau, chúng ta sẽ dùng thuật ngữ giới từ thay cho adposition.


Trong ngôn ngữ học, giới từ được xem là thành viên của phân loại cú pháp "P". "Giới ngữ",[2] gồm phần đầu giới từ và một bổ ngữ được sử dụng cho một loạt các chức năng cú pháp và chức năng ngữ nghĩa, trong đó phổ biến nhất là chức năng xác định và chức năng bổ trợ.

Đại-từ

Người-dịch: Nguyễn-Tiến-Hải

Bài gốc: http://en.wikipedia.org/wiki/Pronoun

Cập-nhật: ngày 07 tháng 07 năm 2010.

Trong ngôn-ngữ-học và ngữ-pháp, một đại-từ (tiếng Latin: pronomen) là một dạng-thế thay-thế cho một danh-từ (hoặc danh-ngữ) có hoặc không có từ-hạn-định, ví dụ: youthey trong tiếng Anh. Ngữ được thay-thế được gọi là tiền-ngữ (tiếng Anh: antecedent - tổ-tiên, quá-khứ) của đại-từ.


Ví dụ chúng-ta xét câu "Lisa gave the coat to Phil." (Lisa đã đưa áo-khoác cho Phil). Tất-cả ba danh-từ trong câu trên (Lisa, the coat, Phil) đều có-thể được thay-thế bằng đại-từ và ta sẽ có câu mới là: "She gave it to him." (Cô ấy đã đưa nó cho anh ấy). Nếu như the coat (cái áo-khoác), Lisa (cô-gái tên Lisa), và Phil (chàng-trai tên Phil) đã được nhắc-tới trước đó thì người-nghe có-thể rút-ra là các đại-từ she (cô ấy), it (nó) và him (anh ấy) nói tới ai/cái gì và do-đó họ sẽ hiểu được nghĩa của câu. Nhưng nếu câu "She gave it to him." được nói lần đầu-tiên để diễn-đạt ý và không có đại-từ nào có tiền-ngữ thì mỗi đại-từ đều có-thể bị hiểu một-cách mập-mờ. Đại-từ không có tiền-ngữ cũng được gọi là đại-từ vô-tiền-ngữ (tiếng Anh: unprecursed). Ngữ-pháp tiếng Anh cho-phép đại-từ có-thể có nhiều ứng-cử-viên tiền-ngữ. Hiện-nay, giải-pháp anaphora được biết-tới như-là một trong những quy-trình xác-định tiền-ngữ đã được hiểu-ngầm trong câu.

Tính-từ

Người-dịch: Nguyễn-Tiến-Hải


Bài dịch từ wikipedia tiếng Anh http://en.wikipedia.org/wiki/Adjective


Cập-nhật: ngày 24 tháng 06 năm 2010.


Trong ngữ pháp, tính từ là từ mà vai trò cú pháp chính của nó dùng để xác định một danh từ hoặc đại từ, đưa thêm thông tin về referent của danh từ hoặc đại từ (referent là đối tượng hoặc ý tưởng mà từ hay đoạn văn hướng đến). Đồng thời các tính từ tạo thành một trong tám bộ phận lời nói trong tiếng Anh truyền thống, mặc dù các nhà ngôn ngữ học ngày nay tách biệt các tính từ với các từ như từ hạn định (tiếng Anh: determiner - một từ, ví dụ như từ chỉ số đếm, mạo từ, tính từ sở hữu, ... xác định/giới hạn nghĩa của một đoạn danh từ, ví dụ từ của trong "con mèo của tôi"). Từ hạn định cũng từng được coi là tính từ.


Không phải tất các các ngôn ngữ có tính từ nhưng phần lớn ngôn ngữ đều có, bao gồm tiếng Anh. Các tính từ tiếng Anh gồm có big (to), old (cũ), và tired (mệt),... Những ngôn ngữ không có tính từ, một cách điển hình, sử dụng các từ của các bộ phận khác trong câu, thường là động từ để phục vụ chức năng cú pháp; ví dụ một ngôn ngữ có thể có một động từ có nghĩa là "to be big", và sẽ sử dụng cấu trúc tương tự "big-being house" để biểu thị "big house" trong tiếng Anh. Ngay cả trong các ngôn ngữ có tính từ thì tính từ của ngôn ngữ này có thể không là tính từ của một ngôn ngữ khác; ví dụ trong khi tiếng Anh sử dụng "to be hungry" (hungry là một tính từ) thì tiếng Pháp sử dụng "avoir faim" (nghĩa theo từng chữ = "to have hunger", hunger là một danh từ), tiếng Hebrew sử dụng tính từ "זקוק" (zaqūq, đại loại nghĩa là "in need of") thì tiếng Anh sử dụng động từ "to need".

Tiếng Indonesia

Người-dịch: Nguyễn-Tiến-Hải

Cập-nhật: ngày 07 tháng 06 năm 2010.

Bài dịch từ wikipedia english http://en.wikipedia.org/wiki/Indonesian_language và từ wikipedia tiếng Nga http://ru.wikipedia.org/wiki/Индонезийский_язык
Tiếng Indonesia (Bahasa Indonesia) là ngôn ngữ chính thức của Indonesia. Tiếng Indonesia là một tiếng chuẩn của tiếng Mã Lai được chính thức xác định cùng với tuyên ngôn độc lập của Indonesia năm 1945. Tiếng Mã Lai và tiếng Indonesia vẫn khá tương đồng.

Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011

Tiếng Việt có mơ·hồ, thiếu chính·xác?

(Báo điện·tử Sài·Gòn tiếp·thị media, ngày 26.07.2010, 05:34 (GMT+7))

Tác·giả: GS.TS Nguyễn·Đức·Dân

Trong bài này tôi chỉ đề cập tới hiện tượng mơ hồ – một câu có ít nhất hai cách hiểu, chứ chưa bàn tới kiểu người khôn ăn nói “nửa chừng”, hay làm trai cứ “nước hai” mà nói. Thứ tiếng nào cũng có những câu mơ hồ. Tiếng Việt không là ngoại lệ.

Về phương·pháp phân·tích câu theo cấu·trúc vị·từ - tham·thể

Tác·giả:  TS. Trần·Kim·Phượng
Khoa Ngữ văn - ĐHSP Hà Nội
(E-mail: tkphuong70@yahoo.com)

Tóm·tắt:
Một câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo bốn phương pháp: (1) theo cấu trúc chủ - vị (ngữ pháp truyền thống), (2) theo cấu trúc vị từ - tham thể (ngữ pháp ngữ nghĩa), (3) theo cấu trúc đề - thuyết (ngữ pháp chức năng), và (4) theo cấu trúc nêu - báo (lý thuyết thông tin). Trong số bốn phương pháp trên thì phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể là phương pháp ra đời tương đối muộn, bề dày lý thuyết chưa nhiều. Phương pháp này có được giảng dạy ở bậc đại học nhưng với số tiết khiêm tốn, do vậy, sinh viên thường lúng túng khi phải thực hiện nó. Chúng tôi viết bài báo này với mục đích giúp sinh viên và những người quan tâm hiểu sâu sắc hơn về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể. Đặc biệt, chúng tôi giới thiệu một cách chi tiết các bước tiến hành phân tích câu theo phương pháp này cũng như ưu điểm, nhược điểm của nó. Một điểm mới nữa của bài viết chính là ở phần so sánh: phương pháp này sẽ được so sánh với phương pháp phân tích câu truyền thống - phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị.

Những kết·luận chính:
  • Phân tích câu theo cấu trúc vị từ tham thể là một hướng phân tích câu theo lối mới. Ưu điểm chính của nó là phản ánh được mặt nghĩa học của câu, làm rõ mối liên quan giữa nội dung câu với thực tế khách quan. Nhược điểm chính của nó là không làm rõ được đâu là thông tin mới trong câu.
  • Có 4 bước tiến hành phân tích câu theo cấu trúc này: (1) xác định vị từ trung tâm; (2) tìm các tham thể; (3) xác định tham thể bắt buộc và tham thể mở rộng; (4) ghi tên các tham thể. Trong các bước này thì bước (4) là khó thực hiện nhất.
  • Có những sự tương ứng nhất định giữa cấu trúc vị từ - tham thể và cấu trúc chủ -vị. Do vậy, người học có thể sử dụng những hiểu biết của mình về cấu trúc chủ -vị để suy ra cấu trúc vị từ - tham thể.

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

Sơ·lược về vấn·đề dịch·thuật

Tác·giả: Dũng Vũ
(Germany, Stuttgart, 13 tháng 04 năm 2004)

Là một trong những dạng sinh hoạt ngôn ngữ phức tạp, trước khi chính thức trở thành một bộ môn khoa học [1] , dịch thuật được hiểu là quá trình hoán chuyển chữ viết một văn bản từ ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ khác (s. s. Koller, 1992:80).

Riêng tại Âu châu, sinh hoạt dịch thuật đã được biết đến từ khá lâu, ví dụ dịch Kinh Thánh. Martin Luther là người nổi tiếng về công việc này và cũng là người đã góp nhiều công lao phát triển lý thuyết dịch thuật tại đây (Stedje, 1999:123).


Vào khoảng đầu thập niên 60, để định nghĩa cũng như cắt nghĩa quá trình dịch, giới ngôn ngữ học đã tiến hành những cuộc nghiên cứu về dịch thuật tự động [2] . Một lý thuyết khoa học dịch thuật đã hình thành từ đó với tiền đề: mỗi từ của một ngôn ngữ có thể được diễn tả bằng một từ, một ngữ đoạn của một ngôn ngữ khác tương ứng một trăm phần trăm.

Suy nghĩ nặng tính cách ngôn ngữ học rằng dịch thuật chỉ đơn thuần là sự chuyển tải nội dung từ một ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ dịch, cũng như việc coi trọng hình thức ngôn ngữ hơn nội dung chính là nguyên do khiến cho có nhiều văn bản không được lưu tâm đúng mức, cụ thể là những văn bản văn chương.

Nhận thức được giới hạn ấy, độc lập với dịch thuật văn chương, trong nội bộ dịch thuật khoa học đã xuất hiện một xu hướng mới: dịch thuật không còn được hiểu đơn giản là sự chuyển tải nội dung mà còn cả văn hóa. Sự đảm bảo tính giao lưu đã trở thành một điều kiện ắt có. Kết quả dịch thuật phải chứng minh được giá trị tương đương về tính giao lưu của văn bản gốc đối với văn bản dịch.

Thống·kê sơ·bộ về các quan·điểm cơ·bản trong nghiên·cứu từ·loại tiếngViệt


Dưới đây là một thống·kê sơ·bộ về các quan·điểm cơ·bản trong nghiên·cứu từ·loại tiếng Việt

Bảng 1

Tên tác giảTiêu chí xác định từ loạiSố lượngDanh sách
A. de Rhode 1651Ý nghĩa2 loại lớnNhững từ biến hình (danh từ, đại từ, tính từ, động từ) và những từ không biến hình.
Lê Văn Lý 1948,1968Giá trị kết hợp6Danh từ, động từ, tính từ, ngôi từ, số từ, phụ từ.
Phan Khôi 1955Chức năng cú pháp9Danh từ, đại danh từ, động từ, hình dung từ, phó từ, giới từ, liên từ, thán từ.
Hoàng Tuệ 1962Khả năng kết hợp Chức vụ cú pháp4Vị từ (danh từ, đại từ, chỉ từ, số từ); tiểu từ (phó từ, giới từ, liên từ, trợ từ); loại từ, thántừ
Trương Văn Chình 1963Ý nghĩaChức năng NP3Thể từ (danh từ); trạng từ (sự trạng động, sự trạng tĩnh), trợ từ.
Nguyễn Kim ThảnKhả năng kết hợp Biện pháp cải biên12Danh từ, thời vị từ, số từ, động từ, tính từ, đại từ, phó từ, giới từ, liên từ, hệ từ, trợ từ, thán từ.
Lưu Vân Lăng 1970Hoạt động của từ trong ngữ đoạn tầng bậc hạt nhân, vị trí, chức năng, vai trò của từ trong ngữ đoạn động.2 loại lớnTừ nòng cốt (danh từ, đại từ, động từ, tính từ); từ phụ gia (hạn từ, phó từ, hệ từ, hiệu từ).
Nguyễn Tài Cẩn 1975Khả năng tổ chức đoản ngữ2 loại lớnTừ có thể làm trung tâm đoản ngữ (danh từ, động từ, tính từ); từ không thể làm trung tâm đoản ngữ (định từ, trạng từ, quan hệ từ, trợ từ…)
Đái Xuân Ninh 1978Vị trí của từKhả năng kết hợpÝ nghĩa của từ8Danh từ, đại từ, động từ, tính từ, từ kèm, từ định chức, từ nghi vấn, từ đệm.
Đinh Văn Đức 1985Ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp, chức vụ cú pháp9Danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, từ phụ, từ nối, tiểu từ, trợ từ.
Diệp Quang Ban1989Ý nghĩa khái quát, Khả năng kết hợp, Chức vụ cú pháp9Danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, phụ từ, kết từ, tình thái từ, thán từ.
Bùi Minh Toán 1992Ý nghĩa khái quát, Khả năng kết hợp, Chức vụ cú pháp8Danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ.
V. X. Panfilov 1993Ý nghĩa5 loại lớnThực từ (động từ, tính từ, danh từ, đại từ nhân xưng), bán thực từ, hư từ, bán hư từ, tiểu từ.
Lê Biên 1996Ý nghĩa khái quát, Khả năng kết hợp, Chức vụ cú pháp9Danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ, thán từ.


Tiểu kết

- Sự khác nhau trong cách nhìn nhận về đặc trưng của loại hình ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính dẫn đến sự khác nhau trong việc xác định vấn đề tiếng Việt có phạm trù từ loại hay không.

Từ kép trong tiếng Việt

Tác-giả: Lưu-Khôn(USA, San Jose, tháng 7 năm 2009)


So với các ngôn ngữ Tây phương như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt thường được coi là tiếng đơn âm hoặc đơn âm tiết (monosyllabic). Lý do là vì, trong tiếng Việt, mỗi từ là một âm (cũng gọi là âm tiết) và chỉ một âm mà thôi. Thật ra, từ VN không những có từ đơn, mà còn có từ kép nữa.
Vậy từ kép là gì? Phân loại ra sao? được viết như thế nào và có công dụng gì trong tiếng nói dân tộc?

I. Từ kép là gì?