Thông báo: Từ vựng tiếng Hàn thường gặp nhất từ 301 trở đi có tính phí. Vui lòng xem hướng dẫn bên góc phải. Notice: 6000 most common Korean words with sample sentences and explanations from 301 are not free. Please contact us at nguyentienhai@gmail.com for more details. Website for learning Korean language effectively in shortest time, fast learning Korean, 6000 most common Korean words, basic Korean words with sample sentences,
Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011
Việc cải·tiến chữ quốc·ngữ
Đăng ở Nhật báo Người Việt , số 4051, ngày 9-1-1997
(Trích sách “100 năm phát triển tiếng Việt”, Phụng Nghi, Nxb. Văn nghệ, Hoa Kỳ, 1999, trang 161, 162)
Lời của tác giả Phụng Nghi: Năm 1997, Giáo sư Lê Bá Kông, trên một loạt bài “Vài nhận xét về tiếng Việt mến yêu” đăng nhiều kì trên báo Người Việt, California, Hoa Kì, có ý kiến như sau về “Việc cải tiến chữ quốc ngữ”:
(…) “Việc cải tiến chữ quốc ngữ. Các máy điện não (computer) càng ngày càng tiến bộ, chúng ta phải quan tâm tới vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ. Xin nhấn mạnh chữ cải tiến, tức là đề nghị cùng các bực thức giả, ai có ý kiến hay sáng kiến xây dựng, hãy mạnh dạn trình bày, nếu hợp lý và thực tiễn, tất nhiên dần dần theo thời gian, bà con đồng hương sẽ chấp nhận. Mọi sự việc đều không tránh được luật tiến hóa.
Chữ quốc ngữ là do sáng kiến của các nhà truyền giáo Tây Phương phổ biến trong nhiều năm trường để rồi trở thành văn tự của nước ta ngày nay. Nó hoàn toàn dựa theo âm thanh và cung điệu, rồi dùng bộ tự mẫu Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha để phiên âm. Nếu so sánh với Anh ngữ thì quốc ngữ (Việt) hợp lý bội phần; thực vậy, văn tự Anh có thể coi là bất hợp lý nhất, thí dụ một chữ A mà có nhiều cách phát âm: cat (kaet), make (mêk), saw (xo), zebra (zíbrơ), England (íngland), barn (ba:n) … Phụ âm cũng rắc rối lắm: rough (răf), church (tsơts), choir (quái-ơ), cab (kaeb), cease (xi:s) …
Theo thiển ý, (…) chỉ nên cải tiến dần dần, chẳng hạn một hai năm đầu, ta dùng:
- D thay cho Đ hiện nay (di, dược, dông…)
- Z thay cho D hiện nay (zụng, zân chủ, zành…)
- F thay cho PH hiện nay (fương, fải, fi kông…)
- K thay cho K và C như: kính, kênh, kũng, kàng…
Sau một thời gian khoảng hai năm nữa ta đề nghị dùng:
- NG cho cả NG và NGH như: nga, ngưng, ngai, nge…
- J thay cho GI trong những chữ: jờ, jấy, jọng…” (…)
Nguồn: http://vietpali.sourceforge.net/binh/ViecCaiTienChuQuocNgu.htm
Tham·luận của GS Hoàng·Tụy tại Hội·nghị “Vấn·đề cải·tiến chữ quốc·ngữ” tại Hà·Nội, 1960

Nói thêm về chữ i và y trong chính-tả tiếng Việt
Tác-giả: Đoàn-Xuân-Kiên
1. Thỉnh thoảng, trên các trang báo đó đây thường có một số độc giả nêu thắc mắc về lối viết chữ i và y trong chính tả tiếng Việt hiện nay. Chẳng hạn trong mục “Bạn Đọc Viết” trong tập san Thế Kỷ 21 số 111 (tháng 7.98) có đăng ý kiến một độc giả về chuyện này. Đại khái các ý kiến có thể tóm trong mấy ý như sau: (1) viết i trong một số trường hợp “làm vướng mắt người đọc”; (2) cách viết đổi y thành i là sự cưỡng bức từ nhà nước Hà Nội đối với miền Nam; (3) viết i trong một số trường hợp là cải cách hay một cách viết cho “lạ” để độc giả chú ý đến bài viết hoặc tờ báo. Để trả lời những thắc mắc nêu trên, trước nay chúng ta thường nghĩ đơn giản như ban biên tập tạp chí Thế Kỷ 21, rằng: (1) tiếng Việt có thể chấp nhận cả I và Y trong một số trường hợp; (2) “và cũng không có luật chính tả nào quy định chữ nào thì phải dùng I, chữ nào phải dùng Y để diễn tả âm I”; (3) nhưng có một “trường phái” muốn thống nhất cho tiện; (4) “công việc vận động này đã có từ ba bốn thập niên, nhưng chưa tới đâu, vì tuy hợp lý nhưng không thắng được thói quen”. Nói chung thì cho đến nay, người mình thường xem chuyện “i dài i ngắn” chẳng qua cũng chỉ là thứ nhiễu sự chữ nghĩa cuả mấy thầy đồ gàn.
Trong một bài viết gần đây về vấn đề chính tả chữ i và y trong tiếng Việt [1] chúng tôi có xem lại vấn đề này để thử tìm hiểu nguyên nhân hiện tượng nhiều lối viết chữ i và y. Lần dò theo một loạt từ điển biên soạn trong thế kỉ XVII, XVIII và XIX, chúng tôi nhận thấy nguyên do của sự kiện lộn xộn trong cách viết hai chữ i và y trong tiếng Việt trước nay là từ sự bất nhất của những nhà sáng chế ra chữ quốc ngữ và các nhà soạn từ điển sau đó. Từ nguyên nhân ban đầu đó dẫn đến hiện tượng sử dụng tuỳ tiện các lối viết khác nhau do ảnh hưởng của những bộ sách khuôn mẫu khác nhau. Và cuối cùng, nhìn sang kinh nghiệm ở một số quốc gia khác, chúng tôi cho rằng sở dĩ hiện tượng bất nhất vẫn tồn tại là vì nước mình thiếu một chính sách ngôn ngữ nghiêm chỉnh của các nhà nước Việt Nam qua nhiều thời kì khác nhau.
Bài viết ngắn này xin góp thêm vài lời về một vấn đề nhỏ và cũ, nhưng dường như chưa được làm sáng tỏ cho lắm. Chúng tôi muốn nhìn lại vấn đề để thử trả lời câu hỏi: “tại sao phải sửa đổi một vài lối viết (chứ không nhất loạt thay thế) chữ i và y ?”
Chữ quốc·ngữ qua những biển·dâu
Thứ Năm, 5 tháng 5, 2011
Về Nguồn - Vài nhận-xét về danh-từ Việt-ngữ
A. Giống của danh-tự
Hãnh-diện với Việt-ngữ ABC
1. Dẫn-nhập
Hơn một tỷ dân Tàu, từ mấy nghìn năm nay, với 9,000 chữ, rồi ghép tới ghép lui, chữ Tàu càng ngày càng tiến-bộ, và lúc nào cũng đủ chữ để dùng cho kịp với trào-lưu tiến-hóa của nhân-loại.
Tiếng Việt chắc-chắn không thua, bởi-vì ngoài tiếng và chữ Tàu là cái gốc đã Việt-hóa, thêm chữ Nôm qá nhiều, thì tiếng Việt không kém bất-cứ một ngôn-ngữ nào của thế-gian nầy.
Một ngôn-ngữ lớn là một sinh-ngữ có nhiều người sử-dụng và lịch-trình sử-dụng lâu đời. Tiếng Tàu được liệt-kê vào loại đó, hơn cả tiếng Anh và tiếng Pháp nữa.
Nếu so-sánh với tiếng Việt, tiếng Tàu chỉ được 1/3 mà thôi.
Vài công-thức đáng nhớ khi học Việt-ngữ ABC
1. Từ-ghép và cụm-từ
Từ-ghép: A + B = C. Đọc là: A liên-hệ với B.
Cụm-từ: A B = A B. Đọc là: A tương-qan với B.
* Trong ‘A liên-hệ với B’ là chữ-ghép (phối-vận), phải có gạch-nối, cùng nhiệm-vụ văn-phạm, ngữ-căn không thay-đổi.
* Trong ‘A tương-qan với B’ là chữ-đơn (đơn-vận), không có gạch-nối, khác nhiệm-vụ văn-phạm, ngữ-căn thay-đổi.
2. Về dấu ngang-nối
Dấu ngang-nối = Xác-định văn-phạm + Xác-định ngữ-căn.
* Xác-định văn-phạm ( = ngữ-pháp, hình-nhi-hạ) => đơn-vận hay đa-vận ( = phối-vận) để biết nhiệm-vụ.
* Xác-định ngữ-căn ( = ngữ-âm, hình-nhi-thượng) => đơn-vận hay đa-vận ( = phối-vận) để hiểu ngữ-căn ( = ý-nghĩa).
* Việt-ngữ có hai loại ngữ-âm và ngữ-pháp: Hán-Tạng hay Nam-Á, chúng khác ý-nghĩa với nhau.
* Không dùng ngữ-âm và ngữ-pháp Hán-Tạng là Nam-Á.
Hơn 99.99% người Việt không dốt, họ mù chữ Việt abc.
Người ngu-xuẩn không hiểu cái khôn cuả kẻ khác, nhưng chỉ bọn ngu-giành thì không hiểu cái ngu cuả người khác.
Nguồn: http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:hc124I22_REJ:tvvn.org
3. Đoàn-Xuân, Về Nguồn – Vài nhận-xét về danh-từ Việt-ngữ
Về Nguồn - Chữ ghép trong Việt-ngữ ABC
Về Nguồn - Dấu ngang-nối trong Việt ngữ
Âm-thanh (tiếng-nói) không thay-đổi nhiều (tùy vùng nhưng vẫn thống-nhất) nhưng ký-hiệu (chữ-viết) thay-đổi theo thời-đại.
Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2011
Chớ·nên làm·nghèo ngôn·ngữ
Tác·giả: Cao·Chư