Thông báo: Từ vựng tiếng Hàn thường gặp nhất từ 301 trở đi có tính phí. Vui lòng xem hướng dẫn bên góc phải. Notice: 6000 most common Korean words with sample sentences and explanations from 301 are not free. Please contact us at nguyentienhai@gmail.com for more details. Website for learning Korean language effectively in shortest time, fast learning Korean, 6000 most common Korean words, basic Korean words with sample sentences,
Thứ Năm, 1 tháng 12, 2016
Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016
“Cuộc chiến” chống nói... ngọng!
Thứ Năm, 06/10/2005 - 11:15
Dân trí - Từ lâu, câu chuyện về ngọng không phải chỉ đơn thuần để cười mà còn ẩn trong đó những tai hại không nhỏ. Thời gian vẫn trôi đi, dù các phương tiện truyền thông, các nhà sư phạm…đã tốn không ít công sức nhưng nói ngọng vẫn cứ tràn ngập ở nhiều vùng, nhiều nơi. Xem ra “cuộc chiến” chống ngọng vẫn còn một tương lai dài ở phía trước...
Dân trí - Từ lâu, câu chuyện về ngọng không phải chỉ đơn thuần để cười mà còn ẩn trong đó những tai hại không nhỏ. Thời gian vẫn trôi đi, dù các phương tiện truyền thông, các nhà sư phạm…đã tốn không ít công sức nhưng nói ngọng vẫn cứ tràn ngập ở nhiều vùng, nhiều nơi. Xem ra “cuộc chiến” chống ngọng vẫn còn một tương lai dài ở phía trước...
“Nà... nà... nà, nặn nội, nực nượng” là một số ít trong vô số những từ phát âm sai mà khán giả nghe được trong chương trình thời sự của đài truyền hình Việt Nam ngày 28/09. Có tới 5 người được phỏng vấn trong chương trình thời sự nói trên đã mắc lỗi này, trong đó có một người là sĩ quan quân đội và một người là Phó chủ tịch UBND huyện.
Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016
"inh lả ơi sao noọng ơi" nghĩa là gì?
Bộc bạch Inh lả ơi
“Inh lả ơi” là một bài hát dân ca dân tộc Thái rất quen thuộc, hầu khắp cả nước đều biết đến. Chỉ với bốn nốt nhạc “son”, “la”, “đô”, “rê” mà nó đã tạo nên giai điệu uyển chuyển trữ tình làm say đắm lòng người. Và cũng chỉ vẻn vẹn hai câu “Khắp núi rừng Tây bắc sáng ngời, mùa xuân đến ngàn hoa hé cười” mà người người hát đi hát lại không thấy chán. Khi khúc ca được cất lên thì mọi người không kể trẻ già, gái trai đều nhịp nhàng bước vào vòng xoè truyền thống. Nghệ sỹ nhân dân Thanh Huyền đã rất thành công khi hát khúc dân ca này. Hồng Nhung là ca sỹ Việt Nam đầu tiên được mời tham dự Liên hoan âm nhạc Châu Á cũng nổi tiếng vì ca khúc Inh lả ơi. Khúc nhạc dân gian đó đã xuất hiện trong nhiều cuốn giáo trình dạy nhạc. Câu hát “Inh lả ơi, sao noọng ơi” đã được nhiều nhạc sỹ đưa vào bài hát của mình như “Inh lả ơi tôi nghe câu hát” của Nguyễn Cường, “Chào Sơn La” của Trần Hoàn, “Điệu xoè thương nhau” của Vương Khon… Cũng với khúc dân ca này, nhiều nhạc sỹ cũng đã thể hiện rất thành công với nhiều nhạc cụ khác nhau như Sacxophone (Trần Mạnh Tuấn), sáo trúc (Đinh Thìn)…
Nhưng, lời hát “Khắp núi rừng Tây bắc sáng ngời, mùa xuân đến ngàn hoa hé cười” cũng mới xuất hiện trong chiến dịch Tây Bắc, còn lời hát truyền thống như thế nào chúng ta còn chưa biết rõ, nghĩa của từ “inh lả” và “xao noọng” là gì cũng ít người thấu hiểu. Xin được bộc bạch cùng bạn đọc đôi chút suy nghĩ của mình về khúc hát dân ca này. Ngày xưa con gái Thái khi bước vào tuổi thiếu nữ cũng là lúc được bước lên “hạn khuống”, một sàn chơi giành riêng cho giới trẻ chưa lập gia đình. Ở đó họ sống rất hồn nhiên, được tự do giao tiếp, được tâm sự, hát đối đáp với các chàng trai trong cũng như ngoài bản. Và cũng ở đó họ khao khát và nảy nở tình yêu say đắm đến cháy bỏng. Họ coi “hạn khuống” là nơi thân thuộc mà thiêng liêng nhất của đời họ. Cho nên, khi đi lấy chồng họ rất hối tiếc; họ thường khóc, thậm chí còn trốn đi trong ngày “tẳng cẩu” (ngày động phòng). Họ cho rằng “Thóc đã đổ bồ chẳng đem quay lại gặt, gái đã lấy chồng không thể quay lại đùa vui” (Xống chụ xon xao), “Thời con gái quá ngắn ngủi so với cả cuộc đời” (Tản chụ xống xương). Khi đi lấy chồng, họ đều có những lời “giã từ hạn khuống”, dặn các em gái trẻ đừng để “sàn hiu quạnh”, vắng bóng các chàng trai…
Khi sinh hoạt hạn khuống, các cô gái thường chia thành hai lớp. Những cô lớn tuổi, đã có thâm niên hạn khuống gọi là “xao ưởi” nghĩa là lớp chị, còn các cô gái nhỏ tuổi mới bắt đầu làm quen với hạn khuống thì gọi là “xao noọng” nghĩa là lớp em. Và lớp chị gọi lớp em một cách âu yếm là “inh lả” có nghĩa là út thân thương. Cho nên, có thể nói rằng “Inh lả ơi, xao noọng ơi” chính là tiếng của các cô gái lớn tuổi sắp đi lấy chồng gọi lớp cô gái trẻ mới bước vào đời. Thế họ gọi làm gì? Trong các lời cổ của khúc dân ca Inh lả ơi có đoạn “…Méng căm ởn thuông bó phí phựa. Bửa bin khái hai pú dí duội. Chứa căn má xum xao ơi. Chứa căn ỉn au đới bók ban. Tản au đới xao báo nhăng nọi. Inh lả ơi, xao noọng ơi“. (Nghĩa là: Ve sầu vờn bông hoa sắc thắm. Bướm bay lượn quanh núi rợp rờn. Cùng đến đây, các em gái ơi. Cùng nhau chơi hết đời hoa ban. Chơi cho hết thời con gái trẻ. Inh lả ơi, xao noọng ơi). Thế đó, các chị sắp đi lấy chồng, sắp phải giã biệt cái thời khắc hồn nhiên và đẹp nhất của cuộc đời, dặn lại các em hãy chơi cho thoả thích, chơi cho hết mình kẻo rồi hối tiếc. Đó cũng chính là nội dung xuyên suốt của làn điệu dân ca Thái Inh lả ơi rất đỗi thân quen.
Về tác giả bài viết
Họ tên: Cà Chung
Sinh ngày 27 tháng 7 năm 1957
Dân tộc: Thái
Quê quán: Chiềng Ngần – Thành phố Sơn La – tỉnh Sơn La.
Hiện là Phó Giám đốc Trung tâm Tin học và Thông tin KHCN Sơn La, kiêm Trưởng ban biên tập các ấn phẩm Thông tin Khoa học và Công nghệ tỉnh Sơn La.
Tự sự của người nói ngọng
Ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí mất cơ hội kiếm việc bởi nói ngọng “l, n” là thực tế đã và đang diễn ra đối với nhiều người ở nơi làm việc.Xung quanh câu chuyện Hà Nội chữa nói ngọng, VietNamNet đã nhận được hàng trăm ý kiến phản hồi, tranh luận về việc có nên hay không nên sửa cách phát âm “l,n”. Nhiều trong số đó là chia sẻ của chính những người nói ngọng.
Người nghe khó lọt tai
“Tôi cũng là người sinh ra và lớn lên thuộc miền Bắc. Hiện giờ tôi đang sống và làm việc tại miền Nam. Tôi đã học xong đại học và cảm thấy thực sự nhục nhã khi mình nói ngọng. Điều này làm nghề nghiệp của tôi bị ảnh hưởng trầm trọng” – bạn đọc Hà Thị Tình tâm sự.
Chia sẻ về điều này, bạn đọc Trần Trung cho rằng: “Tôi đã thấy nhiều người sửa được lỗi "l,n" này, và khi sửa được thì giao tiếp sẽ tốt hơn. Khác với các trường hợp ngọng khác, trường hợp ngọng "l,n" này thường làm người nghe cảm thấy hơi sốc và khó lọt tai. Vì vậy, nếu sửa được thì sẽ rất tốt.
Tôi cũng ủng hộ rằng cần phải có chuẩn mực chung, như thế sẽ thuận tiên hơn cho việc giao tiếp. Tóm lại, lỗi nói ngọng này nhất thiết phải sửa, hãy hành động ngay hôm nay, để 10, 20 năm nữa khi các em nhỏ lớn lên và đi giao tiếp trong xã hội thì các em không phải mặc cảm tự ti vì các phản ứng của xã hội”.
Ứng viên dễ bị mất điểm khi đi phỏng vấn tuyển dụng với phát âm lẫn lộn "l, n" và khó khăn khi học ngôn ngữ nước ngoài. Ảnh có tính chất minh họa. Lê Anh Dũng
Bị tẩy chay
Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2016
Wushu (武术) và võ thuật
Monday, 05 December 2011 14:45 | Author: thieugia |
Tác giả: Võ sư Thiều Ngọc Sơn_Shaojia Zhuangzhu
Vấn đề còn lại là tại sao người Trung Quốc họ không gọi nó (Võ thuật) là Trung Quốc Võ Thuật 中国武术 (Zhongguo Wushu) mà chỉ gọi là Wushu, đây là vấn đề hết sức tế nhị và là vấn đề hoàn toàn có tính "chiến lược". Trung Quốc không gọi như thế là họ có tính toán chứ không phải giản đơn như nhiều người thường nghĩ. Lý do ư? Nếu gọi là Zhongguo Wushu liệu người Nhật, người Hàn, người Mỹ có học không? Những nước đó, họ có khối môn để học (nên nhớ, dân họ không dễ dãi như người Việt ta). Võ Nhật, võ của người Hàn đâu phải là tầm thường? Họ tự hào về các môn võ của dân tộc họ, hà cớ gì họ lại phải học võ của người Trung Quốc? Còn nhớ, người Nhật vào những thập niên đầu của thế kỷ 20 còn gọi người Trung Quốc là “Đông Á bệnh Phu”(东亚病夫).
Người Trung Quốc cho rằng anh không học võ thuật của Trung Quốc cũng không sao, miễn anh chấp nhận học Wushu là được. Mà một khi anh đã học Wushu thì có nghĩa là anh đang học võ của người Trung Quốc, mà đã học "võ của người Trung Quốc" thì phải "tìm hiều về Trung Quốc", về "văn hóa Trung Quốc", về cội nguồn của nó. Sự tính toán của người Trung Quốc là như vậy.
BUỒN VUI VỚI VÕ THUẬT VIỆT NAM
越南 武术
Trước hết xin nói rõ: không phải riêng tôi “buồn” mà tôi biết, cũng có một số người có tâm trạng buồn như tôi (!). Nhưng nói gì thì nói, buồn kiểu gì thì buồn, nhưng buồn cũng phải có lý do, có cơ sở, chứ không thể buồn theo kiểu:
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn…
Là người có nhiều năm gắn bó với nghiệp võ, đặc biệt là bộ môn Võ thuật Cổ truyền và cũng từng qua tham khảo, nghiên cứu nhiều môn như Võ Cổ truyền, Thiếu Lâm, Karatedo, Thái cực quyền… nhưng là một người Việt, thật sự nhiều khi tôi rất buồn vì có rất nhiều người hiểu không đúng về danh từ “Võ thuật” và cũng rất buồn vì “Võ Việt” nay chẳng được mấy người “quan tâm”.
Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2016
Can and Could difference
There is a tendency in Indian speech to use "could" for "can", and "would" for "will". This is wrong (or, to avoid being prescriptive, certainly at variance with other varieties of English, and non-standard even in India). Properly, "could" (subjunctive) is used to express possibility, things that may or may not happen, may or may not be done, etc. (to ask polite questions, for instance) — or in the past tense. If you're using it in the same sense as "can" (for a straightforward expression of ability), you're probably using it incorrectly.
For instance:
For instance:
We could go (if we like / but we won't / etc.), but
We can go (= We are capable of going / It is possible for us to go)
They could see us from the tower (if they were not blind / yesterday), but
They can see us from the tower (=they are capable of seeing us, now)
Wrong: The speaker would be coming tomorrow.
Correct: The speaker will be coming tomorrow. (The progressive is fairly common in IE, but even more natural to just say "The speaker will come tomorrow.")
To keep it simple, I answer you without complex grammatical terminology. There are five possible
We can go (= We are capable of going / It is possible for us to go)
They could see us from the tower (if they were not blind / yesterday), but
They can see us from the tower (=they are capable of seeing us, now)
Wrong: The speaker would be coming tomorrow.
Correct: The speaker will be coming tomorrow. (The progressive is fairly common in IE, but even more natural to just say "The speaker will come tomorrow.")
To keep it simple, I answer you without complex grammatical terminology. There are five possible
situations of using can.
1. Ability
In the first situation, we use can with a meaning of ability. For example, "I think I can lift the box" means that the speaker thinks that she/he is able to lift the box. The past tense form of the sentence is "I thought I could lift the box".
2. Permission
In the second, we use can with the meaning of permission. Undoubtedly, all permissions are questions. Example: "Hey Jim, can I use your PC for awhile?". Use could for more polite forms. Example: "Could you please allow me speak?".
3. Request
In the third case, we use it as a form of request. Example: "Can you please write it for me?". Use could for more polite form. Example: "Could you lend me $100?".
4. Possibility
Sometimes, can is also used to mark a possibility. Example: "Using mobile phones while driving can cause accidents.". Use could if the possibility is uncertain. Example: "He could arrive later."
5. Offer
When offering help to someone, use can. Example: "Can I open the bottle for you?". Could is unusual, formal, and archaic here.
Could is used in two more ways where can isn't normal.
1. To make suggestions
Example: "We could go out for awhile, if you like."
2. To express, forcefully, what someone must do
Example: "You could speak up!"
기로 하다 quyết định làm gì
-Dùng để chỉ một quyết định nào đó của chủ ngữ câu, thực hiện sự chọn lựa giữa nhiều khả năng khác nhau, hoặc đạt đến một giải pháp nào đó. Vì vậy, mẫu câu này thường được dùng ở thì quá khứ.
VD:
담배를 끊기로 했어요. (Tôi đã quyết định bỏ thuốc.)
술을 마시지 않기로 했어요. (Tôi đã quyết định không uống rượu.)
이번 주말에 여행을 가기로 했어요. (Tôi đã quyết định đi du lịch vào cuối tuần này.)
- Ở dạng này, động từ 하다 có thể được thay bởi các động từ: 약속하다 (hứa), 결정하다 (quyết định), 결심하다 (quyết tâm), 작정하다 (dự định) v.v.... Xem các ví dụ sau:
담배를 끊기로 결정했어요. (Tôi quyết định sẽ bỏ thuốc. )
담배를 끊기로 약속했어요. (Tôi hứa sẽ bỏ thuốc. )
담배를 끊기로 결심했어요. (Tôi quyết tâm sẽ bỏ thuốc.)
- Có hai cách để biểu hiện phủ định trong mẫu câu này. Thứ nhất là gắn phủ định vào động từ chính
지 않기로 하다, lúc này nó có nghĩa là 'Quyết định không làm cái gì đó'. Thứ hai là gắn phủ định vào mẫucâu 기로 하다 thành 기로 하지 않다, lúc này nó có nghĩa là 'Không quyết định làm việc gì đó'.
VD:
먹지 않기로 했어요. (Tôi đã quyết định sẽ không ăn)
먹기로 하지 않았어요. (Tôi đã không quyết định sẽ ăn)
(아/어/여)야 되다/하다 bắt buộc phải
- Đuôi từ này dùng để biểu hiện những việc nên /phải làm.
VD:
꼭 와야 됩니다/합니다. (Bạn nhất định phải đến đấy.)
지금은 공부를 해야 됩니다/합니다. (Bây giờ tôi phải học bài.)
지금 가야 됩니까?합니까? (Tôi phải đi ngay bây giờ sao? )
- Các tiếp vĩ ngữ biểu hiện "thời" (quá khứ, tương lai) luôn được gắn với 되다/하다.
VD:
집에 가야 했습니다. (Tôi đã phải đi về nhà.)
아/어/여도 되다/괜찮다/좋다 Dù...cũng không sao/cũng tốt
- Trong mẫu câu trên 아/어/여도 được dùng để chỉ sự việc trước "dù..." thế nào thì sự việc
sau "cũng sẽ..." xảy ra. Thử xem qua các ví dụ sau.
VD:
제가 내일 바빠도, 파티에 꼭 갈게요. (Ngày mai dù tôi có bận rộn nhưng tôi cũng sẽ đến dự buổi tiệc)
한국말이 재미없어도 공부하겠어요. (Dù tiếng Hàn Quốc chẳng thú vị gì nhưng tôi cũng sẽ học)
- Tuy nhiên, ở mẫu câu này 아/어/여도 được dùng với 좋다, 괜찮다, 되다 thay cho mệnh
đề sau 도, mẫu câu này được dùng để hỏi một sự đồng ý, xin phép một việc gì đó.
VD:
문을 열어도 괜찮아요? (Tôi mở cửa được không? (Dù tôi có mở của cũng không sao chứ?)
들어가도 괜찮아요/돼요/좋아요? (Tôi vào được không?)
네, 들어와도 괜찮아요/돼요/좋아요. (Vâng, anh vào đi, không sao đâu)
여기에서 담배 피워도 괜찮아요/돼요/좋아요? (Tôi hút thuốc ở đây được không?)
네, 피워도 괜찮아요/돼요/좋아요. (Vâng, anh hút thuốc ở đây cũng không sao.)
- Để trả lời phủ định cho một câu hỏi xin phép dạng này, chúng ta sử dụng mẫu câu: (으)면 안 되다.
으면 안 되다 được dùng sau gốc động từ có patchim ngoại trừ ㄷ
면 안 되다 được dùng sau gốc động từ không có patchim và có patchim ㄷ.
VD:
들어가도 괜찮아요? (Tôi vào được không?)
아니오, 들어오면 안 돼요. (Không, anh không được vào. (Anh không nên vào.))
네, 들어와도 괜찮아요/돼요/좋아요. (Vâng, anh vào cũng không sao). 떠들면 안 돼요. (Các bạn không được ồn ào.)
지각하면 안 돼요. (Không được đến muộn. (Bạn không nên đến muộn.)
(으)ㄹ때 khi
Dùng khi muốn diễn đạt một khoảng thời gian trong khi một việc nào đó
đang tồn tại hoặc diễn ra. Khi hai hành động diễn ra cùng một thời điểm, ta không đượcdùng thì quá khứ. Nhưng nếu một hành động gắn với ㄹ 때 đã xảy ra trước khi hànhđộng khác diễn ra ở mệnh đề sau, ta nên dùng thì quá khứ để diễn đạt hành động gắn với ㄹ때.
Mẫu câu này được dùng với tất cả các động từ và tính từ nhưng với 이다 thì chỉ có thể dùng được với thì quá khứ.
을때 được dùng sau gốc động từ có patchim.
ㄹ때 được dùng sau động từ không có patchim.
VD:
그분이 떠날 때, 같이 갑시다. (Khi anh ấy rời khỏi đây, chúng ta hãy đi cùng anh ấy.)
날씨가 좋을 때, 여행을 가겠습니다. (Khi nào thời tiết tốt, tôi sẽ đi du lịch)
제가 한국에 갔을 때, 날씨가 아주 추웠어요. (Khi tôi (đã) đến HànQuốc, trời (đã) rất lạnh.)
제가 학교에 갔을 때, 김선생님은 안 계셨어요. (Khi tôi đến trường, thầy Kim đã không có ở đó)
내가 중학생이었을 때, 그곳에 갔어요. (Lúc tôi là một đứa học sinh cấp hai, tôi đã từng đến đó.
Chúng ta có thể dùng các trợ từ 이/가, 을/를, 에, 도, 마다, 까지, 부터, ... để kết hợp với 을 때 để dùngmệnh đề trước như một cụm danh từ.
VD:
학교에 갈 때가 되었어요. (Đã đến lúc (giờ) đến trường rồi. (Giờ mà chúng ta đi đến trường) đã đến)
한국에 올 때마다 한국 음식을 먹어요. (Mỗi khi đến Hàn Quốc tôi đều ăn thức ăn Hàn)
이 일은 시작할 때부터 끝날 때까지 기분이 좋았어요. (Từ lúc việc đó bắt đầu đến lúc nó kết thúc, tâm trạng tôi đã rất vui.)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)