Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011

Nói thêm về chữ i và y trong chính-tả tiếng Việt

Tác-giả: Đoàn-Xuân-Kiên


1. Thỉnh thoảng, trên các trang báo đó đây thường có một số độc giả nêu thắc mắc về lối viết chữ i và y trong chính tả tiếng Việt hiện nay. Chẳng hạn trong mục “Bạn Đọc Viết” trong tập san Thế Kỷ 21 số 111 (tháng 7.98) có đăng ý kiến một độc giả về chuyện này. Đại khái các ý kiến có thể tóm trong mấy ý như sau: (1) viết i trong một số trường hợp “làm vướng mắt người đọc”; (2) cách viết đổi y thành i là sự cưỡng bức từ nhà nước Hà Nội đối với miền Nam; (3) viết i trong một số trường hợp là cải cách hay một cách viết cho “lạ” để độc giả chú ý đến bài viết hoặc tờ báo. Để trả lời những thắc mắc nêu trên, trước nay chúng ta thường nghĩ đơn giản như ban biên tập tạp chí Thế Kỷ 21, rằng: (1) tiếng Việt có thể chấp nhận cả I và Y trong một số trường hợp; (2) “và cũng không có luật chính tả nào quy định chữ nào thì phải dùng I, chữ nào phải dùng Y để diễn tả âm I”; (3) nhưng có một “trường phái” muốn thống nhất cho tiện; (4) “công việc vận động này đã có từ ba bốn thập niên, nhưng chưa tới đâu, vì tuy hợp lý nhưng không thắng được thói quen”. Nói chung thì cho đến nay, người mình thường xem chuyện “i dài i ngắn” chẳng qua cũng chỉ là thứ nhiễu sự chữ nghĩa cuả mấy thầy đồ gàn.


Trong một bài viết gần đây về vấn đề chính tả chữ i và y trong tiếng Việt [1] chúng tôi có xem lại vấn đề này để thử tìm hiểu nguyên nhân hiện tượng nhiều lối viết chữ i và y. Lần dò theo một loạt từ điển biên soạn trong thế kỉ XVII, XVIII và XIX, chúng tôi nhận thấy nguyên do của sự kiện lộn xộn trong cách viết hai chữ i và y trong tiếng Việt trước nay là từ sự bất nhất của những nhà sáng chế ra chữ quốc ngữ và các nhà soạn từ điển sau đó. Từ nguyên nhân ban đầu đó dẫn đến hiện tượng sử dụng tuỳ tiện các lối viết khác nhau do ảnh hưởng của những bộ sách khuôn mẫu khác nhau. Và cuối cùng, nhìn sang kinh nghiệm ở một số quốc gia khác, chúng tôi cho rằng sở dĩ hiện tượng bất nhất vẫn tồn tại là vì nước mình thiếu một chính sách ngôn ngữ nghiêm chỉnh của các nhà nước Việt Nam qua nhiều thời kì khác nhau.


Bài viết ngắn này xin góp thêm vài lời về một vấn đề nhỏ và cũ, nhưng dường như chưa được làm sáng tỏ cho lắm. Chúng tôi muốn nhìn lại vấn đề để thử trả lời câu hỏi: “tại sao phải sửa đổi một vài lối viết (chứ không nhất loạt thay thế) chữ i và y ?”


2. Trước hết, chúng tôi thấy cần đính chính rằng chuyện dài về chữ i và y đã tròn thế kỉ rồi chứ chẳng phải là gần đây mới có chuyện này. Câu chuyện bắt đầu từ năm 1902. Năm đó có mở một Hội Nghị Khảo Cứu Viễn Đông, trong đó có một Uỷ ban xét việc sưả đổi chữ quốc ngữ. Uỷ ban này đã đệ trình một bản đề nghị lên chính phủ thuộc điạ để chuẩn y. Bản đề nghị rất dài cuả Uỷ ban này có nói đến việc sưả đởi cách viết chữ i và y đại khái như sau: “Uỷ ban cũng nghĩ rằng ta phải bỏ hẳn thói quen mà vài tác giả vẫn có., trái với phương pháp do cố De Rhodes đặt ra, là thay y vào chỗ cuả i trong một số trường hợp (chẳng hạn ky, ly, my) mà không có gì chứng minh được” [2]. Nói cách khác những nhà trí thức dạo ấy đã chủ trương khôi phục lại cách chính tả hai chữ i và y mà họ xem là những nguyên tắc chính tả “truyền thống” từ thời mới hình thành chữ quốc ngữ.


Như thế thì chắc những vị đó không phải là những kẻ hiếu sự, thích lập dị để gây chú ý cuả công chúng đâu. Việc làm như thế hẳn phải là rất có ý thức. Sở dĩ gần một thế kỉ qua, việc chưa đi đến đâu, thì chẳng phải vì “không thắng được thói quen” đâu, mà là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân chủ yếu là đất nước mình thiếu một chính sách ngôn ngữ hợp lí.


Ai trong chúng ta cũng có thể đã hơn một lần để ý thấy những điều “bất hợp lí” trong cách viết chính tả tiếng Việt, vì chúng đi chệch khỏi nguyên tắc chính tả ghi âm của “chữ quốc ngữ”. Một trong những điều bất hợp lí ấy là vấn đề chữ i và y. Trong số những điều bất hợp lí kia, có những điều đã đi vào tập quán ngôn ngữ: chẳng hạn, chúng ta có bài và bày, khi nói ra chỉ khác nhau ở âm chính a đọc bình thường, và ă là thể ngắn cuả a. Thế nhưng khi viết, thể ngắn cuả âm chính đã chuyển trách nhiệm về âm cuối i và y để phân biệt a ngắn và a dài. Những hiện tượng như thế đã gần như được mọi người thừa nhận và các sách báo từ điển đều theo một lối, xem như những chuẩn chính tả qua mọi thời kì.


Tuy nhiên, cũng có những bất nhất tạo ra do sự nhầm lẫn hay tuỳ tiện của một số người biên soạn từ điển và sách báo. Để tiện theo dõi, xin bắt đầu từ cái mốc năm 1651. Năm 1651 đánh dấu sự ra đời của bộ từ điển Dictionarium Annamiticum-Lusitanum et Latinum (thường gọi là Từ điển Việt-Bồ-La) của Alexandre de Rhodes. Bộ từ điển này có in kèm một phần “Báo Cáo Vắn Tắt Về Tiếng An Nam Hay Đông Kinh”. Đây chính là bản văn về ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ nay còn giữ được.


Trong mục viết về chữ i , tác giả viết: “I, chúng tôi chỉ sử dụng i nguyên âm, bởi vì tất cả công dụng của i phụ âm được thực hiện tốt hơn bằng chữ g , vả lại i nguyên âm sử dụng như chúng ta; tuy nhiên, để tránh sự lẫn lộn, chúng tôi chỉ dùng i nguyên âm ở giữa và cuối tiếng: ở giữa tiếng, thí dụ biết, scire (hiểu biết), và ở cuối tiếng, thí dụ bí , cucurbita Indica (quả bí); nhưng cần ghi nhận rằng chúng tôi sẽ dùng y ở cuối tư khi nào nó làm thành nhị trùng âm mà vẫn tách biệt, thí dụ éy , ille (cái ấy), còn khi chúng tôi viết với i nguyên âm thì đó là dấu hiệu vẫn không tách biệt, thí dụ ai, quis (ai); chúng tôi không dùng hai chấm ở trên các nguyên âm để tránh sự gia tăng quá nhiều dấu hiệu; cần lưu ý một lần cho xong là i ở cuối từ sau một nguyên âm khác thì không làm thành một vần khác tách biệt, còn khi viết với y Hi lạp thì bấy giờ vẫn bị tách biệt, thí dụ cai , superior (cao hơn, bề trên), cây, arbor (cây cối). Cũng ở đầu tiếng, nhất là trước một nguyên âm khác, thì chúng tôi dùng y Hi lạp, nhưng đừng ai cho đó là phụ âm, thí dụ yêó, debilis (yếu đuối), yả, cacare (ỉa, phóng uế).”


Đại ý của đoạn văn trên là đưa ra bốn nguyên tắc viết chữ i và y như sau:


(a) chữ i dùng để ghi nguyên âm của âm tiết, có thể là nguyên


âm đơn / i / hay nguyên âm đôi / ie / : bí , biết;


(b) khi là bán âm thì i được viết sau nguyên âm thường: cai;


(c) chữ cái y dùng để ghi nguyên âm / i / đứng đầu âm


tiết: yếu , yả (iả);


(d) chữ y bán âm đi sau nguyên âm ngắn: cây, ấy.


Bảng 1


Cứ dựa theo chuẩn mực nói trên thì những hiện tượng bất nhất lâu nay phần rất lớn là từ sự rối loạn của nguyên tắc (a) này. Chúng tôi đã thử lập một bảng thống kê từ một số các từ điển và sách báo in ở hai miền Nam Bắc trước và sau 1975, và ghi nhận những trường hợp viết chính tả chữ i và y sau đây:


1. si/sy - li/ly - kí/ký: chữ i và y đặt ở sau phụ âm đầu, làm phần âm chính của âm tiết


2. sinh - lính - kính -xỉu - : chỉ dùng chữ i trong phần chính cuả âm tiết mà không bao giờ dùng chữ y


3. hia - bìa - đĩa - hiền - biết - giếng: chữ i đi kèm với nguyên âm ê để làm thành tổ hợp âm chính của âm tiết


4. yêu - yến - yểng: tương tự như trường hợp 3 trên đây, nhưng chỉ dùng chữ y


5. im - ỉu - ý - y - ỷ/ỉ: chữ i và y đều đứng ở đầu âm tiết


6. quí/quýt - huyện - thuý - nguy: chữ i và y trong các tổ hợp nguyên âm chúm môi (nghĩa là khi viết thì có chữ u đặt trước nguyên âm chính)


7. mai - cúi - mây - cay - cai : chữ i và y là hai âm cuối đi theo sau một nguyên âm để khép âm tiết lại.


Trong số những trường hợp trên đây, chỉ có hai trường hợp 2, 3 và 7 là dứt khoát, không có tình hình nước đôi, hễ dùng i thì không dùng y, và ngược lại; ngoại giả, những trường hợp còn lại hình như có tình trạng hai chữ i và y dùng thông lẫn nhau.


Xem xét kĩ hơn thì thấy là hiện tượng i và y không phải là không theo nguyên tắc nào. Trong năm trường hợp còn lại, có thể nhận thấy ngay là chúng ta có thể tách được hai nhóm 4 và 5, vì chúng có những nét sóng đôi với hai nhóm 2 và 3: tất cả đều là thành phần âm chính cuả âm tiết. Chỉ có điểm khác biệt duy nhất: một đằng i và y đứng ở đầu âm tiết (nhóm 4 và 5), một đằng thì có phụ âm đầu đi trước (nhóm 2 và 3).


Trong chính tả hiện nay, khi âm /i/ đứng ở đầu âm tiết thì khi viết có tình hình nước đôi: ý tưởng, nhưng í ới. Nếu theo đúng nguyên tắc (a) của De Rhodes thì phải nhất loạt viết là i mà thôi. Tuy vậy, trong khi chúng ta viết âm ỉ, ầm ĩ, đi ỉa theo đúng nguyên tắc âm vị học thì sự thiên vị trong tâm lí ngôn ngữ đã dẫn đến thói quen viết y thị, ý kiến, ỷ lại. Khuynh hướng viết các từ hán việt có âm / i / với chữ y làm âm chính có thể tìm thấy rõ nhất trong Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh (Huế 1931). Ông nhất loạt viết y trong các tiếng đứng đầu âm tiết: y, ỷ, hoặc các từ có phụ âm đầu là h, k, l, m, q, t. Nhưng về mặt ngữ âm, không có lí do gì để tách số từ vựng hán việt ra theo quy tắc chính tả khác với những quy tắc chung. Hoặc giả có người nêu ra lí do thẩm mĩ. Đây là thái độ kì thị không cần thiết trong ngôn ngữ: tại sao “vua nhà Lý” thì phải viết y cho đẹp, còn lí nhí thì viết i ? Một nhà nho ở thế kỉ XVII mà viết hai chữ lý (trưởng) và lí (nhí) ắt hẳn là phải viết bằng một chữ nôm (mượn chữ lí trong chữ nho) thôi. Viện lí do hai từ đồng âm cho nên phải viết khác đi là không hợp lí [3]!


Nhóm 6 cũng có điểm đáng chú ý. Trong chính tả tiếng Việt hiện nay, âm / k / được kí hiệu bằng ba chữ cái tuỳ theo trường hợp: c, k, q. Chữ q chỉ dùng khi có chúm môi mà thôi. Vả chăng, q trong chính tả tiếng Pháp không bao giờ đứng một mình cả, mà luôn kèm với u. Do vậy, đã có quan niệm cho rằng phụ âm đầu trong trường hợp / k / chúm môi phải là qu. Lập luận này sẽ dẫn đến hệ quả là những từ quý, quýt sẽ viết là quí, quít vì âm / i / nay là nguyên âm đứng làm phần âm chính của âm tiết. Nhưng cách phân tích âm tiết như thế tự mâu thuẫn: trước hết, phần âm chính của âm tiết là tổ hợp âm chúm môi /ui/ chứ không phải là /i/, và phụ âm đầu chỉ là /k/; vì thế, nếu tổ hợp này đã xuất hiện đều trong các kết hợp khác như trong quyết, quyền, thì không thể có ngoại lệ là quí được. Sau nữa, không thể lấy cớ là trong các ngôn ngữ Ấn Âu có qu để cho rằng phụ âm đầu là âm chúm môi, vì chúm là thuộc về phần âm chính của âm tiết.


Dựa trên những nét khác biệt này mà chúng tôi quy bốn nhóm vào một loại để phân tích bậc hai ngõ hầu có thể nhận ra nguyên tắc chính tả của chúng.


Chúng tôi nhận thấy là ẩn dưới mớ bòng bong về cách viết hai chữ i và y, có một nguyên tắc chung mà người viết chữ quốc ngữ từ thời Alexandre de Rhodes đến thời chúng ta đều thừa nhận. Nguyên tắc đó gồm có năm điểm như sau:


Viết y trong những trường hợp sau đây:


1) khi tổ hợp âm / iê / ở đầu một tiếng. Ví dụ: yên, yêu, yết.


2) trong các tổ hợp âm chúm môi / ui / và / uiê / (viết là uy, uyê, uya).


Ví dụ: uy, chuyện, khuya, nguy, tuy.


3) ở sau âm ngắn của a [ trong chính tả hiện nay cũng viết bằng đồ


vị / a/ ] và âm ngắn của ơ [tức là đồ vị /â/ ]. Ví dụ: cay, dày, đây, mây.


Viết i trong những trường hợp sau đây:


(4) khi âm / i / là nguyên âm, hay là phần âm chính của âm tiết.


Ví dụ: ỉ, bí, chim, hí, kìm, lì, lính, sĩ, tị, vì, vinh.


(5) khi âm / i / là âm cuối, đứng sau phần âm chính ở thể thường,


để khép âm tiết. Ví dụ: ngùi, đói, người, củi, hời, trai.


Bảng 2


Xem thế thì không phải là tiếng Việt chúng ta không có “chuẩn” nào, không có nguyên tắc chính tả nào. Những ngoại lệ ít ỏi trong chính tả là những hiện tượng thông thường, ngôn ngữ nào cũng có. Nhưng hiện tượng i và y không thế. Chúng tôi nhận thấy là những hiện tượng bất nhất về i và y hoàn toàn là do sự tuỳ tiện kéo dài quá lâu.


Những tìm tòi vừa kể sẽ có ý nghĩa cho những ai có trách nhiệm (những người quản lí vấn đề chính sách ngôn ngữ quốc gia, báo chí, và nhà trường) để góp phần vào tiến trình chuẩn hoá ngôn ngữ. Có thể trong tương lai xa, năm quy tắc kia sẽ được đặt trở lại nghiêm chỉnh chăng ? Nhưng đó là chuyện về sau. Trong điều kiện hiện nay, năm quy tắc đó có thể rút xuống mức thấp nhất những rối rắm về chính tả chữ i và y mà nguyên nhân chính là việc dùng một đồ vị để ghi hai âm vị khác hẳn nhau: i/y đều dùng để ghi nguyên âm / i / và âm cuối / j /. Sự lẫn lộn này đã có từ thời De Rhodes chứ không phải hoàn toàn là do người đi sau.


3. Trước nay các bộ từ điển tiếng Việt được biên soạn tuỳ theo quan điểm chính tả cuả các soạn giả. Duy có bộ Việt Nam Tự Điển do Hội Khai Trí Tiến Đức biên soạn ((Trung Bắc Tân Văn xuất bản, Hà Nội 1931) là theo sát nguyên tắc chính tả chữ i và y như nêu ra trong Bảng 2 trên đây. Uy tín và giá trị học thuật cuả bộ từ điển này đã góp phần rất nhiều cho những công trình tiếp nối về sau này.


Thời gian sau 1975, cuộc giao lưu văn hoá-xã hội lớn lao giữa hai miền Nam-Bắc đã tác động đến ngôn ngữ phổ thông rất nhiều. Và hẳn nhiên cuộc giao lưu này đã không tránh được nhiều chuyện lố bịch, trong đó có những kiểu dùng từ ngữ lạ tai so với thói quen ở trong Nam. Có lẽ cũng là tâm lí dễ hiểu khi có nhiều người ở miền Nam cho rằng lối viết chữ i và y “lạ mắt” là do sự cưỡng bức cuả chính quyền Hà Nội đối với công chúng miền Nam. Nhưng nói thế thật oan cho công phu của một số những nhà trí thức đã đi bước tiên phong trong việc “cải cách” chính tả mà chúng ta đang bàn ở đây.


Trước hết, xin nhắc lại trường hợp những người đi bước đầu trong việc định chuẩn mực cho cách viết chữ i và y: bộ Việt Nam Tự Điển do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo (Hà Nội, 1931). Kế đó, lật lại một số trang sách in tại miền Nam trước 1975, ta thấy một số tác giả in sách ở Sài Gòn đã có ý thức rất cao trong việc định “chuẩn” chính tả tiếng Việt. Từ nhà báo Nguiễn Ngu Í (một biên tập viên chính của tạp chí Bách Khoa nổi tiếng suốt thời kì 1956-1975), đến Gs. Trần Ngọc Ninh (nhà bác học Việt Nam, giáo sư y khoa), từ Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê đến Hoàng Xuân Hãn, những vị này đã thật sự là những cánh én đầu muà đối với việc chỉnh đốn chính tả chữ quốc ngữ tại miền Nam suốt thời kì 1954-1975. Một vị học giả khác tại miền Nam cũng bỏ rất nhiều công lao tìm hiểu và hô hào việc gìn giữ lối viết chính tả i và y suốt từ 1958 đến nay, là Nguyễn Khắc Xuyên. Trang sách in và bài báo của các vị đều rất nhất quán với năm nguyên tắc ghi ở bảng 1 trên đây [4]. Trong khi đó thì tại miền Bắc không hề có một nhà trí thức uy tín nào làm một việc như thế. Dăm ba nhà học giả tại Viện Ngôn Ngữ Hà Nội có viết bài nghiên cứu, và cũng đã có một vài hội nghị bàn về cải cách chữ viết, định chuẩn mực cho ngôn ngữ… Nhưng mấy quan chức ở Viện (chẳng hạn như ông viện trưởng Hoàng Tuệ) thì vẫn tuyên bố thản nhiên là có thể chấp nhận cả i và y [5]!


Cho nên, mãi đến năm 1984 nhà cầm quyền Hà Nội mới ra quyết định về chính tả bằng quyết định 240/QĐ kí ngày 5.3.1984 thì phải nói đó là một quyết định đúng. Chúng tôi nghĩ rằng làm như thế là chính quyền đã phải công nhận việc làm của những người tiền phong ở Hà Nội (1931) và một số nhà trí thức ở miền Nam trưiớc 1975 là đúng. Thế nhưng cũng rất là khôi hài nếu chúng ta biết được sự thật này: ngoài một số sách giáo khoa bậc phổ thông tiểu học và trung học, cho đến nay các trang sách báo in ở trong nước vẫn không thèm đếm xỉa gì đến nguyên tắc chính tả ghi trong Quyết Định vừa nói. Hãy cứ lật bất cứ trang sách báo in ở trong nước sẽ thấy rõ điều này. Cho nên, tưởng cũng nên thận trọng hơn khi quy công lao cho những người chẳng có công trạng gì. Vả chăng, không phải cái gì “lạ mắt” cũng là sản phẩm “của Việt Cộng”, của Hà Nội hết cả. Bộ từ điển Việt Nam Tự Điển (1931) nào có liên hệ gì đến “Việt Cộng” mà vẫn nhất quán lối viết chữ i và y?


Một nhà ngôn ngữ học nổi danh trong nước hiện nay cũng lên tiếng trong bài nhận xét về chữ quốc ngữ của ông, đại khái là ông không chấp nhận có thay đổi gì cả [6]. Ýù chừng ông cho rằng trong ngôn ngữ, chẳng có gì qua thói quen tập thể. Nhưng mà nói cho cùng, nước mình mới thật sự dùng chữ quốc ngữ với tư cách là chữ viết chung cho cả nước, là kể từ năm 1945, khi chính phủ Trần Trọng Kim chính thức ban hành chương trình giáo dục Việt Nam. Trước đó tiếng Việt còn chưa được kể là môn học chính thức, làm gì có thể gọi là có quy củ, có chính sách để có thể gọi một thói quen là thói quen tập thể ? Dựa trên một chứng cứ rất hiển nhiên là hai quyển từ điển Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức và Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh cùng ra đời một năm (1931) mà lại theo hai thói quen trái ngược khi viết chữ i và y (chứ không phải là dùng tuỳ tiện, tự do như thường thấy), chúng ta có lí để hoài nghi tính cách xác đáng cuả lập luận cho rằng chữ quốc ngữ hiện nay là hoàn hảo và không cần chỉnh đốn gì nữa cả.


4. Có người sẽ bảo rằng những chuyện như chúng ta đang bàn đây là việc cuả mấy ông hàn lâm chứ không phải việc của một vài cá nhân. Tuy nhiên, Viện Hàn Lâm là một cơ chế tổ chức của các vị trí thức giỏi chữ nghĩa, thì hiện nay chưa có. Và cứ cái chiều hướng như thế này, việc định chuẩn ngôn ngữ có lẽ cũng còn lâu lắm. Đất nước chúng ta hiện nay có hiện tượng lạ lùng là thả nổi ngôn ngữ, mạnh ai nấy đặt ra chữ nghĩa bất chấp luật lệ. Chẳng hạn kiểu dùng từ ngữ sặc mùi lính tráng trong ngôn ngữ hằng ngày: “tiến công vào trận địa khoa học”. Hoặc kiểu nói chắp vá hán việt và thuần nôm: siêu sao. Hoặc nữa là hiện tượng sản sinh vô tội vạ loại tiếng lóng, kiểu như “anh ta còn máu lắm”, “Sao mà quát lắm thế ! Xin hãy khiêm cho một tí !” [7]… Cứ theo cái đà loạn ngôn ngữ như thế thì không lạ gì người mình đang 'choáng' trong những cơn say “bùng nổ” (?) phát triển, trong sinh hoạt báo chí người ta còn mải vinh danh các “siêu sao người mẫu” (!), người ta đua nhau sáng tạo từ ngữ bất chấp quy luật tạo từ tiếng Việt. Liệu có thể trông mong gì lúc này một viện hàn lâm giúp đỡ cho thế hệ con em chúng ta hay chăng? Chúng tôi không lạc quan đợi viện hàn lâm đâu, vì rằng thế kỉ XX đã có rất nhiều cơ hội để các vị hàn lâm ngồi lại làm việc [8]. Tiếc thay, bàn cãi thì nhiều mà một nghị quyết đủ thẩm quyền thì quá hiếm hoi. Liệu chúng ta có thể đợi các ông hàn bàn cãi thêm một thế kỉ nữa hay không ?


Tưởng cũng nên nói thêm là: chúng ta đang bàn chuyện chỉnh đốn chính tả tiếng Việt khỏi căn bệnh tuỳ tiện, chứ không phải là chuyện “cải cách chính tả”, hoặc chuyện “thay đổi cách viết”. Không một ai có thể bắt ép một cộng đồng ngôn ngữ phải “cải cách” hay phải “thay đổi” một cách chấp định cả. Nếu chính tả tiếng Việt đã được định chuẩn qua thời gian thì chúng ta phải theo tập quán ngôn ngữ thôi. Nhưng trường hợp chính tả tiếng Việt khác rất xa trường hợp tiếng Anh hay tiếng Đức chẳng hạn, từng có một lịch sử dài về chuẩn hoá ngôn ngữ. Cho nên khi hô hào cải cách chính tả tiếng Anh theo kiểu những nhà cách mạng kiểu trường phái phiên âm quốc tế vào những năm 20 của thế kỉ XX thì lố bịch là phải. Khi chúng ta bàn chuyện chỉnh đốn chính tả tiếng Việt thì đó là vấn đề khác hẳn.


Những phát hiện mới liên quan đến lịch sử chữ quốc ngữ cho thấy là hệ thống chữ viết này đã ra đời trong một điều kiện rất tự do: các nhà sáng chế xuất xứ từ những cộng đồng ngôn ngữ khác nhau, đã ghi lại tiếng Việt từ những kinh nghiệm bản ngữ của họ. Cho nên Francisco de Pina viết chữ quốc ngữ khác với Christopho Borri, Gaspar d’Amaral viết khác kiểu của Alexandre de Rhodes… Tuy rằng sách vở của De Rhodes được ấn hành rộng rãi vào giữa thế kỉ XVII, xem ra không hẳn những quan điểm của ông được đánh giá là có giá trị cao nhất vào lúc đó. Hiện nay chưa có nhiều tài liệu giúp chúng ta hình dung những tranh luận đương thời giữa các nhà truyền giáo về các lối viết chữ quốc ngữ. Chắc là thực tiễn lúc đó sôi động lắm chứ không êm ả được, vì xem ra có nhiều quan điểm khác nhau rất xa. De Rhodes có nói trong sách in của ông về sự kế thừa các công trình của người đi trước chứ không phải ø mọi chuyện đều do ông tạo ra. Có điều là khi kế thừa thành tựu của các đồng nghiệp đương thời, dường như ông cũng không hoàn toàn nắm vững hết quan điểm người khác để gạn lọc những gì gọi là chuẩn xác nhất vào thời ông [9].


Trong suốt ba trăm năm hình thành và phát triển, hệ thống “chữ quốc ngữ” chẳng lúc nào được san định chuẩn mực cả. Dọc dài ba thế kỉ XVII, XVIII và nhất là XIX, các nhà soạn sách và từ điển (phần lớn là người phương tây) dựa theo thói quen của mình mà tạo ảnh hưởng lên thói quen quần chúng. Đến năm 1945 tiếng Việt mới chính thức là chuyển ngữ trong xã hội. Các chính quyền tiếp nhau đều không đưa ra được một chính sách ngôn ngữ xác đáng. Các nhà trí thức cũng không quan tâm đúng mức đến cội nguồn vấn đề. Một tập quán 60 năm do kết quả của căn bệnh tuỳ tiện thì chưa thể gọi là một tập quán ngôn ngữ cần tôn trọng. Huống nữa, đối với vấn đề i và y thì không phải chỉ có một thói quen mà có nhiều thói quen cùng một lúc. Vậy thì phải định chuẩn trước khi đặt vấn đề tôn trọng chuẩn.


5. Việc sử dụng ngôn ngữ là của mọi chúng ta. Việc chăm lo giữ gìn nó là trách nhiệm chung của mọi người. Nếu người nghiên cứu có thể đưa ra những luận điểm xác đáng thì sẽ là những gợi ý tốt cho những ai quan tâm đến việc chính tả tiếng Việt (người quản lí chính sách ngôn ngữ, báo chí, nhà trường). Họ sẽ làm những phần việc tiếp theo trong phạm vi chức năng của họ. Những tìm tòi về ngôn ngữ như thế sẽ không là những việc làm vô ích, mà sẽ có góp phần vào việc thúc đẩy sinh hoạt ngôn ngữ tiến bộ. Trên bình diện quốc gia, một cải cách ngôn ngữ hợp lí vẫn có thể thực hiện được nếu có được một kế hoạch hoạt động nhịp nhàng giữa nhà nước, nhà trường và báo chí truyền thông. [10]


Hiện nay thì bệnh tuỳ tiện dường như đã trở thành bất trị, cho nên có người đã đồng hoá bệnh tuỳ tiện này với “tập quán ngôn ngữ.” Hậu quả là những người có trách nhiệm đều lẩn tránh trách nhiệm, thả nổi việc sử dụng ngôn ngữ. Chính sự kiện thả nổi tuỳ tiện này đã dẫn đến những lúng túng cho những ai quan tâm đến giáo dục lớp trẻ chẳng kể là ở trong nước hay ở tại hải ngoại.


Chú-thích:


[1] Đoàn Xuân Kiên (1996) “Chữ i và y trong chính tả tiếng Việt”, Định Hướng số 15 (mùa xuân


1998), tr 96-112.


[2] Bài tường trình đầy đủ về những đề nghị cuả Uỷ ban sưả đổi chữ quốc ngữ này được đăng


trong Kỉ Yếu Viện Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. Xem: “Compte-rendu du premier Congrès international


des Eùtudes Extrême-Orient”, in trong BEFEO, tome III, 1902, tr. 126-127.


[3] Cao Xuân Hạo “Mấy nhận xét về chữ quốc ngữ” in trong tuyển tập Tiếng Việt – mấy vấn đề


ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Hà nội: nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 157-161


[4] Chúng tôi kê ra đây những quyển sách in của các vị vừa nhắc tên, trong đó các vị áp dụng lối


viết chữ i và y như nói đến ở Bảng 2 trên kia. Nguiễn Ngu Í là tác giả quyển Sống Và Viết Với do


nhà xuất bản Ngèi xanh xuất bản tại Sài Gòn (1965). Trần Ngọc Ninh viết và giảng về văn hoá


Việt Nam tại Đại học Vạn Hạnh (Sài Gòn). Hai công trình đã xuất bản là Đức Phật Giữa Chúng Ta


(Lá Bối, 1972) và Cơ Cấu Việt Ngữ (Lửa Thiêng, 1973-74). Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê là


tác giả bộ sách lớn: Khảo Luận về Ngữ Pháp Việt Nam (Đại Học Huế xb, 1963). Hoàng Xuân Hãn in


quyển Bích Câu Kì Ngộ (Đại Học Huế, 1964). Nguyễn Khắc Xuyên đã nhiều lần xem xét vấn đề


chínhtả chữ i và y qua các bài viết của ông. Xem: Nguyễn Khắc Xuyên, “Chung quanh vấn đề


thành lập chữ quốc ngữ” in Văn hoá nguyệt san số 39 (1959), tr. 167-177 và số 48 (1960), tr. 1-


14, “Nguồn gốc hai chữ i và y trong quốc âm” in Văn hoá nguyệt san số 61 (1961) tr. 519-526, và


gần đây nhất là bài “Về i hay y trong chính tả việt ngữ” in Văn học (California) số 75 (th.7.1992),


tr.3-13.


[5] Hoàng Tuệ (1995) “i hay y ?”, báo Văn Nghệ, số 46 (18/11/1995), tr. 5


[6] Cao Xuân Hạo “Mấy nhận xét về chữ quốc ngữ” bài đã dẫn.


[7] Một lối tạo từ lóng kiểu mới: mượn một tiếng có nghĩa trùng với tên riêng một nhà văn !


[8] Như đã nói ở đầu bài, đã có nhiều hội nghị bàn về việc cải cách “chữ quốc ngữ” hoặc về việc


“chuẩn hoá tiếng Việt” từ năm 1902 trở về sau. Nhưng kết quả không như ý mọi người. Xem những


lược thuật về quá trình này trong một số tài liệu sau: Nguyễn Bạt Tuỵ (1949), Chữ và Vần Việt


Khoa Học. Saigon: Ngôn Ngữ; Đoàn Xuân Kiên (1991) “Chữ quốc ngữ qua những biển dâu”, Thế Kỷ


21 số 30 (10.1991), tr. 69-78.


[9] Cho đến nay, những phác hoạ toàn cảnh về buổi đầu chữ quốc ngữ có thể tìm trong một số


công trình quan trọng sau đây: Đỗ Quang Chính (1972) , Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1657. Sài


gòn: nxb Ra Khơi; Roland Jacques (2002) Portuguese Pioneers of Vietnamese Linguistics Prior to


1650 / L’œoeuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne


jusqu’en 1650 (Bangkok, Orchid Press). Đặc biệt là trong công trình mới của Roland Jacques,


chúng ta có thể nhận ra những khác biệt giữa các nhà tiền phong người Portugal và De Rhodes.


Những phát hiện như thế cho thấy ảnh hưởng cá nhân các nhà truyền giáo trong buổi đầu chữ


quốc ngữ (thế kỉ XVII) thật là rõ. Điều đó vẫn đúng đối với hai thế kỉ sau đó.


[10] Về vấn đề này, đã có những kinh nghiệm từ các nước có đầu tư vào việc chuẩn hoá ngôn


ngữ. Xin xem: Rubin & Jernudd (eds) (1971) Can Language Be Planned? Honolulu: An East-West


Center Book.


 Nguồn: Mạng Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ, website: http://ttntt.free.fr/archive/dxkienchiivay.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét