Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

Dịch·thuật - Một vấn·nạn ngôn·ngữ

Tác·giả: Dũng·Vũ

(Stuttgart, tháng 05 năm 2002) (*)

Xưa nay đã có nhiều cuộc bàn cãi về dịch thuật. Người ta có thể bàn đủ thứ song có lẽ ít ai nhận ra được hậu quả tai hại của dịch thuật, đặc biệt là giới dịch thuật khoa học nhân văn.

Hầu hết những người dịch chỉ lưu tâm đến cái khó của dịch thuật là làm sao chuyển tải chính xác ý tưởng một văn bản được viết bằng một ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ dịch. Dịch văn đã khó, dịch thơ càng khó nữa. Đại để, người ta chỉ chú tâm vào đó và xem đó là một vấn đề.

Xét cho cùng, đó không phải là vấn đề chính. Cái vấn đề chính nằm ở chỗ dịch thuật có thể phá hư ngôn ngữ mà ít ai để ý. Nói đúng hơn, đó là một vấn nạn, và tiếng Việt là một nạn nhân điển hình.


Không cần kiến thức ngôn ngữ học, không cần hiểu biết các lý thuyết ngữ pháp phức tạp, ai cũng biết, mỗi ngôn ngữ đều có cấu trúc ngữ pháp riêng, nếu anh/chị ấy biết ít nhất hai ngôn ngữ. Ngữ pháp của một ngôn ngữ không phải là cái gì ngẫu nhiên từ trên trời rơi xuống mà có quy tắc và logic; một kết quả của nguyên tắc hành ngôn đặc thù. Chẳng hạn, tiếng Anh là một loại ngôn ngữ tuyến tính, tiếng Đức không tuyến tính, tiếng Việt là một ngôn ngữ tịnh tiến1). Chỉ nhờ thẩm năng ngôn ngữ, con người mới nhận ra một câu nói có thuộc về một ngôn ngữ mà mình thông thạo hay không. Xem thử một ví dụ, Lê Văn Lý (1948) dùng 5 chữ tạo ra nhiều câu:

(1) Sao nó bảo không đến ?
Sao bảo nó không đến ?
Sao không đến bảo nó ?
Sao nó không bảo đến ?
Sao ? Đến bảo nó không ?
Sao ? Bảo nó đến không ?
Nó đến, sao không bảo ?
Nó đến, không bảo sao ?
Nó đến bảo không sao.
Nó bảo sao không đến ?
Nó đến, bảo sao không ?
Nó bảo đến không sao.
Nó bảo không đến sao ?
Nó không bảo, sao đến ?
Nó không bảo đến sao ?
Nó không đến bảo sao ?
Bảo nó sao không đến ?
Bảo nó: Đến không sao.
Bảo sao nó không đến ?
Bảo nó đến, sao không ?
Bảo nó không đến sao ?
Bảo không, sao nó đến ?
Bảo ! Sao, nó đến không ?
Không bảo, sao nó đến ?
Không đến bảo nó sao ?
Không sao, bảo nó đến.
Không bảo nó đến sao ?
Không đến, bảo nó sao ?
Không đến, nó bảo sao?
Đến bảo nó không sao.
Đến không ? Bảo nó sao ?
Đến không ? Nó bảo sao ?
Đến, sao không bảo nó ?
Đến bảo nó sao không ?
Đến, sao nó không bảo.
Đến, nó bảo không sao.
Đến, nó không bảo sao ?
Đến, sao bảo nó không ?

Với trò chơi hoán vị 5 từ bên trên, theo lý thuyết, ta sẽ được 120 chuỗi từ khác nhau (theo công thức 5 ! (5 giai thừa)). Song thực ra chỉ có 38 chuỗi từ nói được.

Tạm cho là vậy. Thế nhưng thế nào là nói được ? Tại sao người Việt thấy câu “Nó đến, sao bảo không ?” nói được, còn câu “Nó đến không sao bảo” thì không nói được ? Người Việt còn có cảm giác ấy nhưng người ngoại quốc không rành tiếng Việt thì sao ?

Cảm thấy một câu, một thành tố, một chuỗi từ, một cụm từ nói được bởi vì trong vô thức của từng người Việt đã tồn tại sẵn một kho tàng cấu trúc tiếng Việt. Chỉ có những cấu trúc nhất định người Việt mới chấp nhận. Tỉ dụ người Việt nói:

(2) Một cô gái đẹp.

Cũng cùng nội dung ấy, người Anh sẽ nói: “a pretty girl”, hoặc người Đức: “ein schưnes Mädchen”. Hai cấu trúc câu (tiếng Việt so với tiếng Anh, tiếng Đức) khác nhau 2).

Đặt câu hỏi, vì sao người Việt không đặt tính từ “đẹp” trước danh từ “cô gái” mà nói “một đẹp cô gái” cho giống người Anh, người Đức ? Người Tàu nói một “mỹ nhân”. “Mỹ” là “đẹp”, “nhân” là “người”, tại sao người Việt nói ngược thành “người đẹp”. Nói theo ngôn ngữ học là tại sao danh từ trong tiếng Hoa được thêm nghĩa bên trái (left attributed), còn tiếng Việt thì bên phải (right attributed), nghĩa là theo nguyên tắc “chính trước, phụ sau” (như thường gọi) ?

Cái gì cũng có nguyên nhân. Tiếng Việt là một ngôn ngữ thường dùng nguyên tắc đề diễn (Theme/Rheme). Người Việt thường lập câu tịnh tiến để diễn đạt nguyên tắc này. Nguyên tắc đề diễn nói lên trình tự nhận diện và nhận thức về một đối tượng muốn diễn tả. Trình tự này giống như một hàm số: trước nhất phải có phần tử gốc, rồi sau đó mới ứng dụng được một hàm số chọn lọc lên đó để được một phần tử ảnh. Ở ví dụ trên, đối tượng “một cô gái” chính là phần tử gốc. “Đẹp” là hàm số. Kết quả là “một cô gái đẹp”, một phần tử ảnh. Điều này logic, bởi trước nhất phải có “một cô gái” rồi mới xem có “đẹp” không. Nói một cách tổng quát, trước nhất phải nhận diện được đối tượng, rồi mới nhận thức về đối tượng, nghĩa là đánh giá về đối tượng đó. Bởi cái trật tự logic này mang tính tuyến tính, người Việt mới nói xuôi. Trong khi đó, người Anh, người Đức, người Tàu đều nói ngược. Tất nhiên họ có lý do của họ.

Sự khác biệt của ngôn ngữ có liên quan đến đặc tính ngữ pháp. Những đặc tính có thể giải thích được bằng nhiều cách khác nhau. Ví dụ như dựa vào các tiền đề cấu trúc sâu (deep structure), cấu trúc bề mặt (surface structure), chức năng, ... (do khuôn khổ bài viết có giới hạn, không thể vào chi tiết; xin xem thêm Language and Responsibitity (Chomsky 1979)).

Đối với mọi ngôn ngữ, nguyên tắc hành ngôn quyết định ngữ pháp. Tiếng Việt không khác. Khi ngữ pháp bị méo mó, nó sẽ làm hệ thống nguyên tắc hành ngôn bị ảnh hưởng lây. Theo thời gian, hạ tầng cơ sở tiếng Việt sẽ từ từ xuống cấp. Cuối cùng đến lúc nào đó, sẽ không còn ai đủ can đảm hoặc đủ khả năng giải thích nổi cái cấu trúc của nó, bởi bài bản của nó đã bị loạn chiêu hóa, phi logic hóa.

Xưa nay ngữ pháp tiếng Việt đã bị biến đổi một cách vô tình, chủ yếu là qua hoạt động dịch thuật mà đa phần đều xuất phát từ dịch thuật khoa học nhân văn. Thiếu kiến thức ngôn ngữ học, người dịch có thể làm hư tiếng Việt lúc nào không biết. Dẫu biết vậy nhưng làm sao có thể trách một người đã sao y cấu trúc ngữ pháp tiếng Anh, tiếng Pháp vào tiếng Việt, trong khi người ấy không phân biệt được cấu trúc ngữ pháp của hai ngôn ngữ khác nhau thế nào ? Cái khác biệt của từng ngữ pháp nói lên đặc điểm của từng ngôn ngữ, làm sao con người có thể nhận biết ngôn ngữ của mình có đặc điểm gì, tinh hoa gì mà không phải ngôn ngữ nào cũng có ? Làm sao có thể trách người dịch khi họ không được trang bị một thức kiến tối thiểu về ngôn ngữ học: Thành tố (constituent) là gì ? Cấu trúc ngữ đoạn (phrase structure) là gì ? Tiếng Việt có những quy tắc ngữ pháp nào ? Vân vân và vân vân. Có nhà trường nào dạy cho họ những thứ ấy ? Đó là chưa kể trường hợp có nhiều người dịch sống lâu năm ở hải ngoại đã bị bản ngữ ảnh hưởng nặng đến nỗi, khi dịch, họ đã vô tình phản chiếu hầu như 1-1 cái cấu trúc bề mặt (surface structure) của ngoại ngữ vào tiếng Việt. Hãy xem một vài ví dụ mà người dịch tưởng rằng người Việt nào nghe cũng lọt lỗ tai.

Câu bị động (passive sentence):

(3) My father was fined by the police.

Đây là cách lập câu bị động thông thường trong tiếng Anh. Nhiều người hay dịch sát từng chữ câu trên sang tiếng Việt:

(4) Bố tôi bị phạt bởi công an.

Câu này lai cấu trúc tiếng Anh. Ta nên nhớ, trong tiếng Việt, cấu trúc câu xác định giống cấu trúc câu nghi vấn, cho nên không ai hỏi:

(5) Bố anh bị phạt bởi ai ?

mà là hỏi:

(6) Bố anh bị ai phạt ?

Hoặc thay vì dùng “bởi” ở thái bị động (passive voice) theo kiểu tiếng Anh, người Việt hỏi:

(7) Bố anh bị gì ?

Với câu hỏi đó, người nghe có thể trả lời đại khái như:

(8) Bố tôi bị phạt.
(9) Bố tôi bị bệnh.
(10) Bố tôi bị thất nghiệp, lường gạt, v.v.

Cấu trúc trên là một loại cấu trúc tịnh (một thuộc tính của tính tịnh tiến trong tiếng Việt). Tịnh được hiểu là cấu trúc câu hỏi giống cấu trúc câu trả lời. Cụ thể, chỉ cần thế vào vị trí từ nghi vấn “gì” bằng một từ xác định nào đó như “phạt”, “bệnh”, ..., ta sẽ có câu trả lời mà không cần phải chuyển vị bằng cách đặt động từ lên đầu câu như ở các ngôn ngữ nghịch đảo (inversion language) Anh, Pháp, Đức, ...

Muốn trả lời cụ thể hơn, ai là tác nhân gây ra hành động, người ta hỏi:

(11) Bố anh bị ai làm gì ?

Từ đây mới có câu trả lời tịnh tiến, ví dụ:

(12) Bố tôi bị công an phạt.
(13) Bố tôi bị hãng sa thải.
(14) Bố tôi bị người ta lường gạt.

Chứ không ai nói:

(15) Bố tôi bị phạt bởi công an
(16) Bố tôi bị sa thải bởi hãng.
(17) Bố tôi bị lường gạt bởi người ta.

Tương tự vậy, người Việt không nói:

(18) Bà đó bị phạt bởi trời.
(19) Ông đó bị cắn bởi chó.
(20) Đứa con út được cưng chìu bởi bố mẹ.
(21) Cuộc thi hoa hậu được tổ chức bởi hãng nước hoa Chanel.
(22) Tội ác sẽ bị lên án bởi xã hội.

mà là nói:

(23) Bà đó bị trời phạt.
(24) Ông đó bị chó cắn.
(25) Đứa con út được bố mẹ cưng chìu.
(26) Cuộc thi hoa hậu do hãng nước hoa Chanel tổ chức.
(27) Tội ác sẽ bị xã hội lên án.

Giả như “trời”, “chó”, “bố mẹ”, “hãng nước hoa Chanel”, “xã hội” không đóng vai trò theta (q role) 3) như một tác nhân đi chăng nữa, vẫn có trường hợp muốn diễn tả thái bị động mà người Việt không thể bắt chước y hệt cách lập câu của người Anh:

(28) A mountain was seen in the distance.
(29) * 4)Một ngọn núi được trông thấy ở đằng xa.

Câu dịch sát chữ như vậy không được tự nhiên vì chúng ta đã vô tình sao chép nguyên cấu trúc tiếng Anh vào tiếng Việt. Cách hành ngôn đó là của người Anh. Cách hành ngôn của người Việt khác:

(30) Người ta thấy có một ngọn núi ở đằng xa.
(31) Người ta thấy một ngọn núi ở đằng xa.
(32) Có một ngọn núi ở đằng xa.

Cách hành ngôn trên mang tính tịnh tiến:

Hỏi: Người ta thấy gì ?
Trả lời: Người ta thấy một ngọn núi.

Nghĩa là cấu trúc câu hỏi vẫn là cấu trúc câu trả lời. Chỉ khác là “gì” được thay thế bằng “một ngọn núi” vào đúng ngay vị trí của nó. Cấu trúc không đổi được coi như tịnh. Còn câu cứ kéo dài mãi thì được gọi là tiến (tuyến tính, tiến về phía phải), nhưng phải hợp lý, ví dụ:

Hỏi tiếp: ... ngọn núi nào/ở đâu.
Cuối cùng là câu trả lời: Người ta thấy một ngọn núi ở đằng xa.

Cả những cấu trúc đề diễn (Theme/Rheme structure) chứa mệnh đề chính (main clause) và mệnh đề phụ (subordinate clause) trong tiếng Anh tưởng chừng rất dễ dịch sang tiếng Việt, thế nhưng không hẳn thế:

(33) It was I who knocked at your door.

Nguyên câu trên là mệnh đề chính. Đoạn “who knocked at your door” là mệnh đề phụ. Đây là hình thức câu chẻ (cleft sentence) rất thông dụng trong tiếng Anh. Tuy nhiên nếu sao chép cấu trúc này vào tiếng Việt, chúng ta sẽ được một câu nghe khá lạ tai:

(34) Đó là tôi người đã gõ cửa phòng anh.

Người Việt không nói thế. Cao lắm họ nói:

(35) Chính tôi đã gõ cửa phòng anh.

Hình thức câu chẻ trên hầu như không thấy trong tiếng Việt.

Hoặc một hình thức khác là dùng “to”:

(36) You forget to answer his letter.
(37) * Anh quên để trả lời lá thư của hắn.

Người Việt không nói vậy mà thông thường là:

(38) Anh quên trả lời thư hắn.
(39) Anh quên trả lời lá thư của hắn.

Hoặc:

(40) I’ll come to see you tomorrow.
(41) * Tôi sẽ tới để thăm anh ngày mai.

Trong trường hợp này, vẫn có cách nói thuần túy Việt Nam:

(42) Mai tôi sẽ tới thăm anh.
(43) Ngày mai tôi sẽ tới thăm anh.

Nói chung, thay vì dùng “to” giữa hai động từ như người Anh, người Việt thường ghép 2 động từ lại một: “quên trả lời”, “tới thăm”, ... Dĩ nhiên trong tiếng Việt cũng có cách dùng“để” mà thường bị hiểu nhầm là hoàn toàn đồng nghĩa với “to” của tiếng Anh hoặc “zu” của tiếng Đức. Trong tiếng Việt, “để” nằm giữa hai động từ cốt để diễn tả một hành động nhằm mục đích gì, hoặc để diễn tả ý nghĩa nhằm mục đích gì:

(44) Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn.
(45) Sở dĩ tôi phải giải thích dông dài là để anh đừng hỏi nữa.

Chúng ta nhận thấy, qua các ví dụ trên, tiếng Anh là một loại ngôn ngữ tuyến tính giống như tiếng Việt, đặc biệt là cấu trúc câu xác định. Tuy vậy, hai ngôn ngữ vẫn không giống nhau hoàn toàn.

Ngữ pháp có thể bị người dịch thiếu hiểu biết vô tình làm hư mất. Nhưng lạ thay, đối với giới dịch thuật Việt Nam, có lẽ điều này không đúng hẳn. Nhìn vào thực tế, ai cũng thấy có một hiện tượng khá lạ lùng là khi dịch tiếng Việt sang ngoại ngữ, người dịch cố gắng viết đúng ngữ pháp của ngoại ngữ ấy, ngược lại, khi dịch một ngoại ngữ sang tiếng Việt, người dịch lại sao chép cấu trúc ngữ pháp của ngoại ngữ ấy vào tiếng mẹ đẻ của mình. Đây là một nhược điểm tiêu biểu của người Việt. Trong khi đó, thử lấy tiếng Đức làm ví dụ, thử đọc bất kỳ một cuốn sách nào được dịch sang tiếng Đức, người đọc phải công nhận, người dịch luôn cố gắng viết đúng ngữ pháp tiếng Đức. Điều này chẳng có gì khó hiểu, bởi giới dịch thuật có bài bản là giới không những chỉ thành thạo ngôn ngữ một cách vô thức như người thường (hiểu theo Chomsky là người nói/nghe lý tưởng) mà còn có tri thức ngôn ngữ, nghĩa là ít nhiều gì họ cũng có học về ngôn ngữ học, trong đó, cú pháp (syntax) và ngữ nghĩa (semantic) là hai bộ môn bắt buộc. Lý do cần kiến thức cú pháp là để tránh vấn đề ngữ pháp, lý do cần kiến thức ngữ nghĩa là để tránh vấn đề diễn giải nội dung. Làm chủ kiến thức ngôn ngữ vẫn chưa đủ, họ còn có ý thức bảo vệ tính trong sáng của ngôn ngữ. Có thể nói, kiến thức ngôn ngữ và ý thức ngôn ngữ là hai điều kiện căn bản bắt buộc mỗi người dịch thuật chuyên nghiệp phải có.

Thế thì chúng ta, mỗi người đã từng dịch thuật, hãy tự hỏi mình đã đạt được những điều kiện ấy chưa ? Nên nhớ, viết hay chưa đủ mà còn phải viết đúng ngôn ngữ. Điều này hết sức quan trọng, vì khi người đọc tiếp thu cái sai, nó sẽ tiếp tục lây lan như bịnh dịch, làm tiếng Việt càng bịnh thêm.

Nói thế, chắc sẽ có ý kiến cho rằng, các ngoại ngữ mạnh như tiếng Anh chẳng hạn, nhờ cấu trúc đa dạng, họ có thể diễn đạt nội dung một cách phong phú, dễ dàng; điều này ta nên học hỏi. Theo tôi, cái nhìn này có vẻ thuần cảm xúc. Người có ý kiến ấy có lẽ chưa nhìn thấy mặt giới hạn của tiếng Anh. Hãy thử nhìn vào các lý thuyết nguyên thủy dựa trên ngữ pháp tiếng Anh như Ngữ pháp biến hình tạo sinh (Generative Transformation Grammar), Lý thuyết căn bản (Standard Theory), Lý thuyết căn bản mở rộng (Extended Standard Theory), Lý thuyết chi phối và ràng buộc (Government and Binding Theory (GB)), Nguyên tắc và thông số (Principles and Parameters (P&P)), Tối thiểu luận (Minimalism (MP)) của Chomsky5). Quy tắc ngữ pháp được lập nên từ các lý thuyết đó đã phải được bổ sung, mở rộng để thỏa các cấu trúc ngôn ngữ khác mà tiếng Anh không có, ví dụ phần lớn quy tắc cấu trúc ngữ đoạn của tiếng Anh chỉ là một tập hợp con của tiếng Việt (tất nhiên tiếng Anh cũng có các cấu trúc mà tiếng Việt không có). Cụ thể, nhờ lý thuyết X-gạch (X-bar theory)6), người ta có thể gói ghém hầu hết các cấu trúc tiếng Anh vào 3 quy tắc:

(i) Quy tắc biệt định ngữ (specifier phrase rule): X’ ® (YP) X’
(ii) Quy tắc phụ ngữ (adjunct phrase rule): X’ ® X’ (ZP) | (ZP) X’
(iii) Quy tắc bổ ngữ (complement phrase rule): X’ ® X (WP)

Thế nhưng các quy tắc trên không thể giải thích mọi ngôn ngữ, vì vậy mà phải được mở rộng thành:

(iv) Quy tắc biệt định ngữ: X’ ® X’ (YP) | (YP) X’
(v) Quy tắc phụ ngữ: X’ ® X’ (ZP) | (ZP) X’
(vi) Quy tắc bổ ngữ: X’ ® X (WP) | (WP) X

Kết quả, chúng có thể giải thích được các ngôn ngữ Ấn-Âu (Thổ, Ba Lan, Ý, ...), kể cả tiếng Tàu cũng không thành vấn đề, song đụng tới tiếng Việt là thất bại ngay. Tại sao ? Bởi làm sao có thể giải thích hoàn hảo được tính cảm đề của tiếng Việt, hoặc tính tỉnh lược, hoặc những loại hư từ đa năng không nằm trong các lớp từ như “verb class”, “noun class”, “adjective class”, “prepositional class”, ... mà xưa kia các nhà ngôn ngữ Tây phương cứ nghĩ ngôn ngữ tự nhiên (natural language) chỉ có chừng ấy mà thôi7) ?

Nói ngắn gọn, nếu nghiên cứu kỹ về cú pháp học, chúng ta sẽ hiểu tại sao các quy tắc ngữ đoạn tiếng Anh không đủ giải thích tiếng Việt. Đừng nên nghĩ văn hay hoặc dở là do cấu trúc. Muốn diễn tả thế nào đi nữa, chúng ta chỉ có bao nhiêu đó loại ngữ đoạn chính (động từ, danh từ, tính/trạng từ, giới từ, ...)8). Không ai phủ nhận cấu trúc ngôn ngữ là hạ tầng cơ sở của câu văn, song chưa hẳn đó đã là hạt nhân quyết định hoàn toàn văn phong của người viết. Viết hay/dở còn tùy vào cách dùng chữ, cách tỉnh lược, cách bố cục, ... và đặc biệt là ý tưởng. Người viết tiếng Anh/Pháp/Đức ... cũng chỉ dùng bao nhiêu đấy loại ngữ đoạn để diễn đạt ý tưởng. Tiếng Việt cũng có các loại ngữ đoạn ấy.

Đã nhìn thấy vấn đề, nay hãy đặt câu hỏi: Làm thế nào để giải quyết được vấn đề đó ? Có một điều rất rõ và nên nhìn nhận là mặt giáo dục ngôn ngữ của Việt Nam xưa nay rất yếu. Yếu đến nỗi người Việt dùng tiếng Việt còn không biết cấu trúc của nó thế nào. Nhiều người tự mãn, tiếng Việt hay lắm, phong phú lắm, sâu sắc lắm, v.v., tiếng Anh, tiếng Pháp không bằng, ... Không hiểu nhiều, không nhìn ra thế giới bên ngoài mà tự đắc. Ngược lại, vì nhìn ra bên ngoài nhưng lại không thực sự hiểu hết cái hay đặc trưng của tiếng Việt bên trong, thấy mình không bằng ai, mất tự tin rồi cứ thế mà sao y bản chính cấu trúc ngôn ngữ của người ta. Cả hai thái độ đều không giúp chúng ta giải quyết được vấn đề.

Nếu không có điều kiện học hỏi như ở các xứ tân tiến, chúng ta vẫn có cách giải quyết vấn đề như thường mặc dù tương đối. Mỗi người Việt (biết tiếng Việt) đều nói đúng ngữ pháp cả. Xin lưu ý là nói chứ không phải viết. Cái kho tàng quy tắc ngữ pháp còn nguyên vẹn đấy, nó nằm trong vô thức của từng người. Đó là điểm lợi nếu biết vận dụng thẩm năng ngôn ngữ của mình. Cụ thể, người dịch thuật văn chương có thể thử nghiệm một trong hai giải thuật dịch ngoại ngữ sang tiếng Việt sau đây:

Giải thuật 1:
Bước 1: Dịch 1-1 đúng vị trí từng chữ/từ trong câu bản gốc.
Bước 2: Đổi vị trí từ hoặc lược từ trong từng thành tố một sao đúng kiểu tiếng Việt, theo văn nói.
Bước 3: Đổi vị trí thành tố sao cho đúng cách hành ngôn tiếng Việt (văn nói)
Bước 4: Chọn lọc từ ngữ, lược từ, mở rộng thành tố cho vừa ý.
Bước 5: Lập lại bước 1 cho câu kế tiếp.

Giải thuật 2:
Bước 1: Hiểu kỹ ý từng câu trong văn bản gốc. Để ý văn mạch, ngữ cảnh phía trước.
Bước 2: Dịch tất cả các từ trong câu văn bản gốc sang tiếng Việt.
Bước 3: Lẩm nhẩm trong miệng, với ý chính đó, ta sẽ nói bằng tiếng Việt thế nào cho xuôi rồi ghi lại. Xin lưu ý là văn nói chứ không phải văn viết.
Bước 4: Thêm các chi tiết còn lại cũng bằng văn nói.
Bước 5: Chuyển sang văn viết: Văn nói thường rất luộm thuộm. Cần trau chuốt. Dùng các phương pháp như phép tỉnh lược, phép thế, phép mở rộng, ... ngoại trừ phép hoán vị.
Bước 6: Đối chiếu nội dung văn viết bản dịch với bản gốc xem có sát nghĩa không.
Bước 7: Xem cách hành ngôn có mất tự nhiên quá hay không (lấy văn nói làm mẫu đối chiếu).
Bước 8: Lập lại bước 1 cho câu kế tiếp.

Có giải thuật nhưng chưa hẳn là không có điều kiện. Ví dụ, giải thuật 1 chỉ ứng dụng được đối với người dịch ít nhiều đã hiểu các nguyên tắc hành ngôn theo tiếng Việt (tính cảm đề, tính tịnh tiến, tính tỉnh lược, tính đề diễn, ...) cũng như đã hiểu thành tố, ngữ đoạn là gì.

Nói gì thì nói, cách tốt nhất vẫn là nên trang bị cho mình những kiến thức căn bản về cú pháp học và ngữ nghĩa học. Không nhiều và không khó lắm.

Tài·liệu tham·khảo: 
  1. Chomsky, Noam (1965) Aspects of the Theory of Syntax. M.I.T. Press: Cambridge.
  2. Chomsky, Noam (1979) Language and Responsibitity. Pantheon Books: New York.
  3. Chomsky, Noam (1980) On Binding. Linguistic Inquiry 11, 1-46
  4. Chomsky, Noam (1981) Lectures on Government and Binding. Dordrecht: Foris.
  5. Chomsky, Noam (1993) A Minimalist Program for Linguistic Theory. In Kenneth L. Hale and Samuel J. Keyser (eds) The View from Building 20. Cambridge: MIT Press.
  6. Chomsky, Noam (1995) The Minimalist Program. Cambridge: MIT Press.
  7. Cao Xuân Hạo (1999) Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Nxb Giáo Dục: TP.****.
  8. Dũng Vũ (2001) Tiếng Việt và Ngôn ngữ học hiện đại – Sơ khảo về cú pháp (sẽ xuất bản)
  9. Lê văn Lý (1948) Le Parler Vietnamien. Huong Anh: Paris.
  10. Nguyễn Tài Cẩn (1999) Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội: Hà Nội.
  11. Nguyễn Kim Thản (1997): Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Giáo Dục: TP.****.
(*) viết rõ thêm từ thư trả lời Talawas (23.01.01).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét